Tài liệu Hoạt động đánh giá năng lực, phẩm chất cần đạt, Hoạt động ra đề, ma trận đề, đề mẫu Lớp 1

I. QUAN ĐIỂM VỀ ĐÁNH GIÁ HỌC SINH TIỂU HỌC NHẰM PHÁT
TRIỂN PHẨM CHẤT, NĂNG LỰC
1. Kế thừa Thông tư số 30/2014/TT-BGDĐT và Thông tư số 22/2016/TT-
BGDĐT
2. Đảm bảo phù hợp với chương trình giáo dục phổ thông 2018 thông qua
một số điểm mới nổi bật được quy định trong Thông tư
II. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU VÀ NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ
NHẰM PHÁT TRIỂN PHẨM CHẤT, NĂNG LỰC HỌC SINH TIỂU HỌC
1. Mục đích đánh giá học sinh tiểu học
2. Các yêu cầu đánh giá học sinh tiểu học
3. Nội dung đánh giá
4. Phương pháp đánh giá học sinh tiểu học
III. ĐÁNH GIÁ THƯỜNG XUYÊN
1. Quy định về đánh giá thường xuyên nêu trong Thông tư 27
2. Đánh giá thường xuyên trong quá trình học tập, rèn luyện của học sinh
3. Yêu cầu cần đạt về phẩm chất, năng lực học sinh
4. Yêu cầu cần đạt về năng lực đặc thù
5. Ví dụ minh họa
IV. ĐÁNH GIÁ ĐỊNH KÌ
1. Quy định về đánh giá định kì quy định trong Thông tư 27
2. Đánh giá định kì
3. Ví dụ minh họa
pdf 49 trang Hào Phú 01/08/2024 3560
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Hoạt động đánh giá năng lực, phẩm chất cần đạt, Hoạt động ra đề, ma trận đề, đề mẫu Lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tài liệu Hoạt động đánh giá năng lực, phẩm chất cần đạt, Hoạt động ra đề, ma trận đề, đề mẫu Lớp 1

Tài liệu Hoạt động đánh giá năng lực, phẩm chất cần đạt, Hoạt động ra đề, ma trận đề, đề mẫu Lớp 1
1 
MỤC LỤC 
I. QUAN ĐIỂM VỀ ĐÁNH GIÁ HỌC SINH TIỂU HỌC NHẰM PHÁT 
TRIỂN PHẨM CHẤT, NĂNG LỰC 
1. Kế thừa Thông tư số 30/2014/TT-BGDĐT và Thông tư số 22/2016/TT-
BGDĐT 
2. Đảm bảo phù hợp với chương trình giáo dục phổ thông 2018 thông qua 
một số điểm mới nổi bật được quy định trong Thông tư 
II. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU VÀ NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ 
NHẰM PHÁT TRIỂN PHẨM CHẤT, NĂNG LỰC HỌC SINH TIỂU HỌC 
1. Mục đích đánh giá học sinh tiểu học 
2. Các yêu cầu đánh giá học sinh tiểu học 
3. Nội dung đánh giá 
4. Phương pháp đánh giá học sinh tiểu học 
III. ĐÁNH GIÁ THƯỜNG XUYÊN 
1. Quy định về đánh giá thường xuyên nêu trong Thông tư 27 
2. Đánh giá thường xuyên trong quá trình học tập, rèn luyện của học sinh 
3. Yêu cầu cần đạt về phẩm chất, năng lực học sinh 
4. Yêu cầu cần đạt về năng lực đặc thù 
5. Ví dụ minh họa 
IV. ĐÁNH GIÁ ĐỊNH KÌ 
1. Quy định về đánh giá định kì quy định trong Thông tư 27 
2. Đánh giá định kì 
3. Ví dụ minh họa 
V. SỬ DỤNG KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ VÀ HỒ SƠ ĐÁNH GIÁ 
1. Tổng hợp đánh giá kết quả giáo dục 
2. Hồ sơ đánh giá 
3. Xét hoàn thành chương trình lớp học, hoàn thành chương trình tiểu học 
4. Nghiệm thu, bàn giao kết quả giáo dục học sinh 
2 
5. Khen thưởng 
VI. TRÁCH NHIỆM TỔ CHỨC THỰC HIỆN 
1. Đối với giáo viên 
2. Đối với hiệu trưởng nhà trường 
3. Đối với phòng giáo dục và đào tạo, sở giáo dục và đào tạo 
3 
I. QUAN ĐIỂM VỀ ĐÁNH GIÁ HỌC SINH TIỂU HỌC NHẰM PHÁT 
TRIỂN PHẨM CHẤT, NĂNG LỰC 
 Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương 
về Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã nêu rõ: “Đổi mới căn bản 
hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo”, 
“Phối hợp sử dụng kết quả đánh giá trong quá trình học với đánh giá cuối học kỳ, 
cuối năm học; đánh giá của người dạy với tự đánh giá của người học; đánh giá của 
nhà trường với đánh giá của gia đình và xã hội”. 
Nghị quyết số 88/2014/QH13 ngày 28/11/2014 của Quốc hội về Đổi mới 
chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông xác định rõ: “Đổi mới căn bản 
phương pháp đánh giá chất lượng giáo dục theo hướng hỗ trợ phát triển phẩm chất 
và năng lực học sinh”. 
Nghị quyết số 44/NQ-CP ngày 09/6/2014 của Chính phủ về Chương trình 
hành động thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW nêu rõ định hướng về đánh giá HS 
là: “Đổi mới hình thức, phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả theo hướng 
đánh giá năng lực người học; kết hợp đánh giá cả quá trình với đánh giá cuối kỳ 
học, cuối năm học theo mô hình của các nước có nền giáo dục phát triển”. 
Triển khai các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội và Chính phủ, Bộ Giáo dục 
và Đào tạo (GDĐT) đã ban hành Thông tư số 30/2014/TT-BGDĐT ngày 
28/8/2014 ban hành quy định đánh giá học sinh tiểu học, theo đó nội dung nổi bật 
của Thông tư này là tập trung vào đánh giá quá trình, coi trọng đánh giá thường 
xuyên bằng nhận xét. Thông tư số 30/2014/TT-BGDĐT ra đời là sự hiện thực hóa 
tinh thần đổi mới của Nghị quyết 29-NQ/TW: “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo 
dục và đào tạo”; thực hiện giải pháp “Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp 
thi, kiểm tra, và đánh giá chất lượng giáo dục, bảo đảm trung thực, khách quan”. 
Tuy nhiên, sau 02 năm triển khai Thông tư số 30/2014/TT-BGDĐT bộc lộ một số 
điểm bất cập và được Bộ GDĐT ban hành Thông tư số 22/2016/TT-BGDĐT sửa 
đổi, bổ sung một số điều của quy định đánh giá học sinh tiểu học ban hành theo số 
30/2014/TT-BGDĐT. Theo đó, Thông tư số 22/2016/TT-BGDĐT quy định về 
đánh giá học sinh tiểu học tường minh hơn, cụ thể hơn; giúp cho giáo viên dễ dàng 
hơn trong việc đánh giá học sinh; giúp cho phụ huynh có cơ hội nắm bắt được rõ 
ràng hơn mức độ đạt được của con em mình, từ đó kịp thời phối hợp với nhà 
trường trong quá trình giáo dục học sinh. 
4 
Về cơ bản Thông tư số 22/2016/TT-BGDĐT tiếp nối tinh thần nhân văn của 
Thông tư số 30/2014/TT-BGDĐT, đánh giá phải vì sự tiến bộ của học sinh hay 
đánh giá để phát triển học tập, đánh giá như là hoạt động học tập, nhưng làm rõ 
cơ sở khoa học của hai phương thức đánh giá thường xuyên bằng nhận xét và 
đánh giá định kỳ bằng điểm số. Đồng thời sửa đổi những điểm bất cập, giúp làm 
giảm đáng kể áp lực (bỏ việc phải ghi nhận xét hàng tháng, từng học sinh vào Sổ 
chất lượng giáo dục), giúp lượng hóa trong đánh giá thường xuyên học sinh tiểu 
học. 
Thông tư số 22/2016/TT-BGDĐT bổ sung quy định lượng hóa kết quả học 
tập theo yêu cầu môn học dựa trên chuẩn kiến thức, kĩ năng theo 3 mức: Hoàn 
Hoàn thành tốt, Hoàn thành, Chưa hoàn thành đối với từng môn học (trước đây 
theo Thông tư số 30/2014/TT-BGDĐT chỉ có hai mức: Hoàn thành và Chưa hoàn 
thành). Việc lượng hóa theo 3 mức này được giáo viên thực hiện vào giữa kỳ và 
cuối mỗi học kỳ, sẽ kịp thời cung cấp những thông tin phản hồi rất hữu ích giúp 
học sinh biết mình tiến bộ ra sao, những lĩnh vực nào có sự tiến bộ, lĩnh vực học 
tập nào có khó khăn. Đồng thời, giúp học sinh nhận ra mình thiếu hụt những gì so 
với chuẩn kiến thức, kỹ năng hay yêu cầu, mục tiêu bài học để cả giáo viên và học 
sinh cùng điều chỉnh hoạt động dạy và học. 
Thông tư số 22/2016/TT-BGDĐT cũng bổ sung quy định lượng hóa kết quả 
giáo dục theo hướng tiếp cận năng lực. Trên cơ sở quá trình đánh giá thường xuyên 
diễn ra hàng ngày, hàng tuần đến giữa và cuối mỗi học kỳ, giáo viên chủ nhiệm 
lớp lượng hóa từng năng lực, phẩm chất thành ba mức: Tốt, Đạt, Cần cố gắng 
(trước đây theo thông tư 30 chỉ có 2 mức Đạt và Chưa đạt). Việc lượng hóa này, 
cho phép giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục, cha mẹ học sinh xác định được mức 
độ hình thành, phát triển năng lực, phẩm chất của học sinh sau một giai đoạn học 
tập, rèn luyện. Từ đó giáo viên, nhà trường có những giải pháp kịp thời giúp đỡ 
học sinh khắc phục hạn chế, phát huy những điểm tích cực để các em ngày một 
tiến bộ hơn. 
Triển khai Nghị quyết số 88/2014/QH13 ngày 28/11/2014 của Quốc hội về 
Đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông, ngày 26/12/2018 Bộ 
Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) đã ban hành Chương trình giáo dục phổ thông kèm 
theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT (Chương trình giáo dục phổ thông 2018) 
bắt đầu thực hiện từ năm học 2020-2021, trong đó tác động trực tiếp đến nội dung 
5 
và phương thức đánh giá, tập trung vào đánh giá phẩm chất, năng lực của học sinh. 
Đối với nội dung đánh giá, Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đề ra quan điểm 
về đánh giá giáo dục như sau: “Mục tiêu đánh giá kết quả giáo dục là cung cấp 
thông tin chính xác, kịp thời, có giá trị về mức độ đáp ứng yêu cầu cần đạt của 
chương trình và sự tiến bộ của học sinh để hướng dẫn hoạt động học tập, điều 
chỉnh các hoạt động dạy học, quản lý và phát triển chương trình, bảo đảm sự tiến 
bộ của từng học sinh và nâng cao chất lượng giáo dục. Căn cứ đánh giá là các yêu 
cầu cần đạt về phẩm chất và năng lực được quy định trong chương trình tổng thể 
và các chương trình môn học, hoạt động giáo dục. Phạm vi đánh giá bao gồm các 
môn học và hoạt động giáo dục bắt buộc, môn học và chuyên đề học tập lựa chọn 
và môn học tự chọn. Đối tượng đánh giá là sản phẩm và quá trình học tập, rèn 
luyện của học sinh. Kết quả giáo dục được đánh giá bằng các hình thức định tính 
và định lượng thông qua đánh giá thường xuyên, định kỳ ở cơ sở giáo dục” 
Để thực hiện đánh giá học sinh tiểu học trên cơ sở kế thừa và đổi mới về nội 
dung, hình thức tổ chức triển khai đánh giá học sinh tiểu học đáp ứng yêu cầu thực 
hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018, ngày 04/9/2020 Bộ GDĐT đã ban 
hành Thông tư số 27/2020/TT-BGDĐT về việc quy định đánh giá học sinh tiểu 
học, trong đó khẳng định “Đánh giá học sinh tiểu học là quá trình thu thập, xử lý 
thông tin thông qua các hoạt động quan sát, theo dõi, trao đổi, kiểm tra, nhận xét 
quá trình học tập, rèn luyện của học sinh; tư vấn, hướng dẫn, động viên học sinh; 
diễn giải thông tin định tính hoặc định lượng về kết quả học tập, rèn luyện, sự hình 
thành và phát triển một số phẩm chất, năng lực của học sinh tiểu học.” và đảm bảo 
tính kế thừa, đổi mới như sau: 
1. Kế thừa Thông tư số 30/2014/TT-BGDĐT và Thông tư số 
22/2016/TT-BGDĐT 
- Tiếp tục thực hiện quan điểm đánh giá vì sự tiến bộ của học sinh; coi trọng 
việc động viên, khuyến khích sự cố gắng trong học tập, rèn luyện của học sinh; 
giúp học sinh phát huy nhiều nhất khả năng, năng lực; đảm bảo kịp thời, công 
bằng, khách quan; không so sánh học sinh này với học sinh khác, không tạo áp lực 
cho học sinh, giáo viên và cha mẹ học sinh. 
- Đảm bảo đánh giá học sinh tiểu học theo quá trình, gồm các hình thức như 
đánh giá thường xuyên, đánh giá định kỳ và đánh giá tổng hợp. Trong đó, giữ quy 
6 
định đánh giá thường xuyên bằng nhận xét và giáo viên được chủ động khi nào 
nhận xét bằng lời, khi nào viết nhận xét cho phù hợp. 
- Giúp cha mẹ học sinh nắm bắt mức độ học tập, rèn luyện của học sinh, 
thông qua việc đảm bảo đánh giá định kỳ bằng lượng hóa thành các mức: “Hoàn 
thành tốt”, “Hoàn thành”, “Chưa hoàn thành” đối với từng môn học và hoạt động 
giáo dục; “Tốt”, “Đạt”, “Cần cố gắng” đối với từng phẩm chất chủ yếu, năng lực 
cốt lõi tại thời điểm giữa và cuối mỗi học kỳ. 
2. Đảm bảo phù hợp với chương trình giáo dục phổ thông 2018 thông 
qua một số điểm mới nổi bật được quy định trong Thông tư 
- Đảm bảo đánh giá các nội dung theo chương trình giáo dục phổ thông 2018 
về các môn học/hoạt động giáo dục, phẩm chất chủ yếu, năng lực cốt lõi (những 
năng lực chung và những năng lực đặc thù). 
- Bổ sung nội dung về phương pháp, kĩ thuật và một số công cụ đánh giá, 
đảm bảo đúng thành phần theo lý thuyết khoa học về đánh giá, gồm: phạm vi, đối 
tượng, nội dung, hình thức tổ chức, phương pháp, kỹ thuật và quy trình đánh giá. 
Ngoài ra, quy định này giúp định hướng cho giáo viên các phương pháp, cách thức 
tiến hành trong quá trình đánh giá học sinh, phù hợp với lứa tuổi tiểu học và cụ thể 
hoá Chương trình giáo dục phổ thông 2018. 
- Các câu hỏi/bài tập trong bài kiểm tra định kỳ, được thể hiện bằng 03 mức 
độ thay vì 04 mức độ như hiện hành theo Thông tư số 22/2016/TT-BGDĐT, nhằm 
đảm bảo thống nhất với cách tiếp cận của các cấp học trên và các nước tiên tiến 
trên thế giới và tạo thuận lợi cho giáo viên trong quá trình biên soạn các câu 
hỏi/bài tập để xây dựng đề kiểm tra định kỳ. 
- Quy định về “tổng hợp đánh giá kết quả giáo dục”, “hồ sơ đánh giá”, cũng 
là những điểm mới của Thông tư số 27/2020/TT-BGDĐT. Điều này nhằm tường 
minh hoá quá trình đánh giá, đồng thời đảm bảo kết cấu chặt chẽ, hợp logic về mặt 
hình thức, tạo thành quy trình hoàn chỉnh trong đánh giá gồm đủ các hình thức: 
đánh giá thường xuyên; đánh giá định kỳ; tổng hợp đánh giá kết quả giáo dục; sử 
dụng kết quả đánh giá. Trong đó, lưu tâm đến quy định hồ sơ, học bạ điện tử được 
sử dụng tại mỗi cơ sở giáo dục phổ thông. 
- Thông tư số 27/2020/TT-BGDĐT cụ thể hoá việc viết trên giấy khen nhằm 
khắc phục hạn chế tiêu cực về việc khen thưởng; chỉ khen thưởng những học sinh 
thực sự xuất sắc và xứng đáng, được tập thể lớp công nhận. Theo đó, đối với việc 
7 
khen thưởng cuối năm học chỉ sử dụng danh hiệu Học sinh Xuất sắc cho những 
học sinh được đánh giá kết quả giáo dục đạt mức Hoàn thành xuất sắc và danh hiệu 
Học sinh Tiêu biểu hoàn thành tốt trong học tập và rèn luyện cho những học sinh 
được đánh giá kết quả giáo dục đạt mức Hoàn thành tốt, đồng thời có thành tích 
xuất sắc về ít nhất một môn học hoặc có tiến bộ rõ rệt ít nhất một phẩm chất, năng 
lực; được tập thể lớp công nhận. Hình thức viết trên giấy khen vào cuối năm học 
được ghi theo danh hiệu đạt được nên tạo thuận lợi cho giáo viên và khắc phục một 
số hạn chế hiện nay. 
Bên cạnh đó, Thông tư số 27/2020/TT-BGDĐT quy định hình thức “thư 
khen”, cụ thể “Cán bộ quản lý và giáo viên có thể gửi thư khen cho những học 
sinh có thành tích, cố gắng trong quá trình học tập, rèn luyện phẩm chất, năng lực 
hoặc có những việc làm tốt” nhằm động viên kịp thời những học sinh có thành tích, 
cố gắng trong quá trình học tập, rèn luyện phẩm chất, năng lực hoặc có những việc 
làm tốt. Điều này, giúp các em có thêm động lực cùng nhau rèn luyện tu dưỡng đạo 
đức, trau dồi kiến thức để không ngừng tiến bộ. 
II. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU VÀ NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ 
NHẰM PHÁT TRIỂN PHẨM CHẤT, NĂNG LỰC HỌC SINH TIỂU HỌC 
1. Mục đích đánh giá học sinh tiểu học 
Có thể nói rằng, bất kỳ khâu nào của quản lý giáo dục cũng cần tới đánh giá. 
Không có đánh giá thì hệ thống quản lý giáo dục sẽ trở thành một hệ thống một 
chiều, không có cơ chế phản ánh trở lại, tức là chỉ có chiều đi mà không có chiều 
về. Đây là một cơ chế quản lý không khoa học, không hoàn thiện. 
Chỉ khi có đánh giá, quản lý giáo dục mới nhận được phản hồi, mới kịp thời 
phát hiện ra các vấn đề và giải quyết chúng. Giáo dục là một hệ thống quản lý hai 
chiều nên có thể nói đánh giá là một nhân tố đảm bảo cho quản lý giáo dục có tính 
khoa học và hoàn thiện. 
 Xét trên tầm vĩ mô, đánh giá trong giáo dục là một biện pháp quan trọng 
nhằm đổi mới giáo dục. Nghị quyết số 29-NQ/TW yêu cầu: “Đổi mới căn bản, 
hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo, bảo 
đảm trung thực, khách quan”. Trong bối cảnh của Việt Nam, việc chuyển từ thực 
trạng chú trọng đo lường bằng điểm số kết quả tiếp thu kiến thức sang đánh giá 
8 
toàn diện phẩm chất và năng lực học sinh sẽ có tác động đến tất cả các yếu tố khác 
của chương trình giáo dục phổ thông (mục tiêu, nội dung, hình thức tổ chức và 
phương pháp giáo dục). 
Xét ở tầm vi mô, kết quả đánh giá giúp các cán bộ quản lý nhà trường có 
những điều chỉnh, thay đổi cần thiết trong việc xây dựng và tổ chức quá trình giáo 
dục như: điều chỉnh kế hoạch giáo dục nhà trường; quản lý, chỉ đạo xây dựng và 
thực hiện nội dung giáo dục; quản lý đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy 
học và đánh giá; huy động các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục; thực hiện 
trách nhiệm giải trình, công khai chất lượng giáo dục; 
Đối với trường tiểu học, đổi mới đánh giá có thể coi là một khâu đột phá 
quan trọng của quá trình dạy học, đánh giá theo định hướng phát triển phẩm chất, 
năng lực học sinh; xác định mức độ đạt được mục tiêu của quá trình dạy học và 
góp phần trực tiếp thúc đẩy và hoàn thiện quá trình dạy học. Chính vì vậy, ở cấp 
tiểu học, mục đích đánh giá là cung cấp thông tin chính xác, kịp thời, xác định 
được thành tích học tập, rèn luyện theo mức độ đáp ứng yêu cầu cần đạt của 
chương trình giáo dục phổ thông cấp tiểu học và sự tiến bộ của học sinh để hướng 
dẫn hoạt động học tập, điều chỉnh các hoạt động dạy học nhằm nâng cao chất 
lượng giáo dục, cụ thể như sau: 
- Giúp giáo viên điều chỉnh, đổi mới hình thức tổ chức, phương pháp giáo 
dục trong quá trình dạy học, giáo dục; kịp thời phát hiện những cố gắng, tiến bộ 
của học sinh nhằm động viên, khích lệ và phát hiện những khó khăn chưa thể tự 
vượt qua của học sinh để hướng dẫn, giúp đỡ nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả 
hoạt động học tập, rèn luyện của học sinh; góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục 
tiểu học. 
- Giúp học sinh có khả năng tự nhận xét, tham gia nhận xét; tự học, tự điều 
chỉnh cách học; giao tiếp, hợp tác; có hứng thú học tập và rèn luyện để tiến bộ. 
- Giúp cha mẹ học sinh hoặc người giám hộ (sau đây gọi chung là cha mẹ 
học sinh) tham gia đánh giá quá trình và kết quả học tập, rèn luyện, quá trình hình 
thành và phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh; tích cực hợp tác với nhà 
trường trong các hoạt động giáo dục học sinh. 
9 
- Giúp cán bộ quản lý giáo dục các cấp kịp thời chỉ đạo các hoạt động giáo 
dục, đổi mới phương pháp dạy học, phương pháp đánh giá nhằm đạt hiệu quả giáo 
dục. 
- Giúp các tổ chức xã hội nắm thông tin chính xác, khách quan, phát huy 
nguồn lực xã hội tham gia đầu tư phát triển giáo dục. 
2. Các yêu cầu đánh giá học sinh tiểu học 
Theo một số quan điểm về đánh giá thì kết quả đánh giá phải cung cấp được 
những thông tin hữu ích, chính xác cho những đối tượng liên quan để có thể đưa ra 
các quyết định đúng đắn. Để đảm bảo được vai trò này, quá trình đánh giá cũng 
cần phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản đó là: 
- Đảm bảo tính giá trị. Việc đánh giá phẩm chất, năng lực, các môn học/hoạt 
động giáo dục bắt đầu với những giá trị giáo dục. Đánh giá không phải là sự kết 
thúc trong chính nó mà là một phương tiện để cải thiện chất lượng và hiệu quả giáo 
dục. Có nghĩa là cần xác định các giá trị mang lại cho các đối tượng liên quan sau 
khi thực hiện quá trình đánh giá, ví dụ như cung cấp những thông tin phản hồi để 
giúp mỗi cá nhân tự cải thiện một phẩm chất, năng lực hoặc môn học/hoạt động 
giáo dục nào đó. 
- Đảm bảo tính toàn diện và linh hoạt. Việc đánh giá phẩm chất, năng lực, 
môn học/hoạt động giáo dục hiệu quả nhất khi phản ánh được sự hiểu biết đa 
chiều, tích hợp, về bản chất của các hành vi được bộc lộ theo thời gian. Phẩm chất, 
năng lực, các môn học/hoạt động giáo dục là một tổ hợp, đòi hỏi không chỉ sự hiểu 
biết mà là làm được những từ những điều tiếp nhận được; điều này bao gồm không 
chỉ có kiến thức, khả năng mà còn là giá trị, thái độ và thói quen hành vi ảnh 
hưởng đến mọi hoạt động. Do vậy, đánh giá cần phản ánh những hiểu biết bằng 
cách sử dụng đa dạng các phương pháp nhằm mục đích mô tả một “bức tranh” 
hoàn chỉnh hơn và chính xác phẩm chất, năng lực, mức độ đạt được theo yêu cầu 
cần đạt về môn học/hoạt động giáo dục của người được đánh giá. 
- Đảm bảo tính công bằng và tin cậy: công cụ đánh giá không có sự thiên vị 
cho các đối tượng (giới, dân tộc, vùng miền, đối tượng,...); cách phân tích, xử lý 
kết quả không bị ảnh hưởng bởi các mối quan hệ cá nhân; kết quả đánh giá ổn 
10 
định, chính xác, không bị phụ thuộc vào người đánh giá, những nhiệm vụ ở các nội 
dung đánh giá khác nhau. Kết quả đánh giá phải thống nhất khi được lặp đi lặp lại 
nhiều lần. 
- Đánh giá cần quan tâm đến cả kết quả và những trải nghiệm của học sinh 
để có được kết quả đó. Không thể phủ nhận tầm quan trọng của thông tin về kết 
quả học tập. Tuy nhiên, để cải thiện kết quả, chúng ta cần phải biết về những trải 
nghiệm của đối tượng đang được đánh giá để từ đó có thể xác định hiệu quả của 
hoạt động, lý giải được kết quả mà học sinh đạt được. Đánh giá có thể giúp chỉ ra 
những điều kiện để cá nhân đạt kết quả tốt hơn; phát huy khả năng tự cải thiện của 
học sinh trong hoạt động đó. 
- Đánh giá trong bối cảnh thực tiễn và vì sự phát triển của học sinh được 
đánh giá. Đánh giá tốt nhất khi hoạt động đó đang diễn ra, không đợi đến khi nó 
kết thúc. Đánh giá là một quá trình mà độ tin cậy thể hiện qua sự tích lũy các thông 
tin minh chứng. Kết quả đánh giá sẽ có giá trị hơn khi các hoạt động mà chúng ta 
đánh giá được liên kết lại theo trình tự thời gian. 
Chính vì vậy, trong quá trình triển khai đánh giá học sinh tiểu học cần đảm 
bảo một số yêu cầu như sau: 
- Đánh giá học sinh thông qua đánh giá mức độ đáp ứng yêu cầu cần đạt và 
biểu hiện cụ thể về các thành phần năng lực của từng môn học, hoạt động giáo dục 
và những biểu hiện phẩm chất, năng lực của học sinh theo yêu cầu của chương 
trình giáo dục phổ thông cấp tiểu học. 
- Đánh giá thường xuyên bằng nhận xét, đánh giá định kỳ bằng điểm số kết 
hợp với nhận xét; kết hợp đánh giá của giáo viên, học sinh, cha mẹ học sinh, trong 
đó đánh giá của giáo viên là quan trọng nhất. 
- Đánh giá sự tiến bộ và vì sự tiến bộ của học sinh; coi trọng việc động viên, 
khuyến khích sự cố gắng trong học tập, rèn luyện của học sinh; giúp học sinh phát 
huy nhiều nhất khả năng, năng lực; đảm bảo kịp thời, công bằng, khách quan; 
không so sánh học sinh này với học sinh khác, không tạo áp lực cho học sinh, giáo 
viên và cha mẹ học sinh. 
3. Nội dung đánh giá học sinh tiểu học 
11 
 a) Đánh giá quá trình học tập, sự tiến bộ và kết quả học tập của học sinh đáp 
ứng yêu cầu cần đạt và biểu hiện cụ thể về các thành phần năng lực của từng môn 
học, hoạt động giáo dục theo Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đối với cấp 
tiểu học. 
 b) Đánh giá sự hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh 
thông qua những phẩm chất chủ yếu và những năng lực cốt lõi như sau: 
 - Những phẩm chất chủ yếu: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách 
nhiệm. 
 - Những năng lực cốt lõi: 
 +) Những năng lực chung: tự chủ và tự học, giao tiếp và hợp tác, giải quyết 
vấn đề và sáng tạo; 
+) Những năng lực đặc thù: ngôn ngữ, tính toán, khoa học, công nghệ, tin 
học, thẩm mĩ, thể chất. 
4. Phương pháp đánh giá học sinh tiểu học 
Một số phương pháp đánh giá thường được sử dụng trong quá trình đánh giá 
học sinh gồm: 
a) Phương pháp quan sát: Giáo viên theo dõi, lắng nghe học sinh trong quá 
trình giảng dạy trên lớp, sử dụng phiếu quan sát, bảng kiểm tra, nhật ký ghi chép 
lại các biểu hiện của học sinh để sử dụng làm minh chứng đánh giá quá trình học 
tập, rèn luyện của học sinh. 
Quan sát là nhóm phương pháp chủ yếu mà giáo viên thường sử dụng để thu 
thập dữ liệu kiểm tra đánh giá. Quan sát bao hàm việc theo dõi hoặc xem xét học 
sinh thực hiện các hoạt động (quan sát quá trình) hoặc nhận xét một sản phẩm do 
học sinh làm ra (quan sát sản phẩm). 
Quan sát quá trình: đòi hỏi trong thời gian quan sát, giáo viên phải chú ý 
đến những hành vi của học sinh như: sự tương tác (tranh luận, chia sẻ các suy nghĩ, 
biểu lộ cảm xúc...) giữa các học sinh với nhau trong nhóm, nói chuyện riêng trong 
lớp, bắt nạt các học sinh khác, mất tập trung, có vẻ mặt căng thẳng, lo lắng, lúng 
túng,... hay hào hứng, giơ tay phát biểu trong giờ học, ngồi im thụ động hoặc 
không ngồi yên được quá ba phút... 
Quan sát sản phẩm: Học sinh phải tạo ra sản phẩm cụ thể, là bằng chứng của 
12 
sự vận dụng các kiến thức đã học. Những sản phẩm rất đa dạng: bài luận ngắn, bài 
tập nhóm, báo cáo ghi chép/bài tập môn khoa học, báo cáo khoa học, báo cáo thực 
hành, biểu đồ, biểu bảng theo chủ đề, vẽ một bức tranh tĩnh vật, tạo ra được một 
dụng cụ thực hành/ thí nghiệm Học sinh phải tự trình bày sản phẩm của mình, 
còn giáo viên đánh giá sự tiến bộ hoặc xem xét quá trình làm ra sản phẩm đó. Giáo 
viên sẽ quan sát và cho ý kiến đánh giá về sản phẩm, giúp các em hoàn thiện sản 
phẩm. 
Một số quan sát được tiến hành có chủ định và định trước, như trong trường 
hợp giáo viên đánh giá học sinh khi các em đọc bài trong nhóm tập đọc hoặc trình 
bày một báo cáo trước lớp. Trong những tình huống như thế, giáo viên có thể quan 
sát một tập hợp các hành vi ứng xử của học sinh. Ví dụ, khi học sinh đọc bài trước 
lớp, giáo viên có thể theo dõi và lắng nghe xem học sinh phát âm có rõ ràng không, 
có thường xuyên ngước lên nhìn trong khi đọc hay không, có thể hiện sự tự tin hay 
không... Những quan sát như thế đã được định sẵn nên giáo viên có thời gian để 
chuẩn bị cho học sinh và xác định trước từng hành vi cụ thể nào sẽ được quan sát. 
Một số các quan sát khác của giáo viên lại không chủ định và ngẫu nhiên, 
như khi giáo viên thấy hai học sinh nói chuyện thay vì thảo luận bài học, nhận thấy 
một em học sinh có biểu hiện tổn thương khi bị bạn cùng lớp trêu chọc về quần áo 
của mình, hoặc nhìn thấy một học sinh bồn chồn, ngồi không yên và luôn nhìn ra 
cửa sổ trong suốt giờ khoa học... Những quan sát tự phát như thế, dựa trên những 
bắt gặp bất chợt khi “quan sát học sinh”, phản ánh những chuyện xảy ra thoáng qua 
không định sẵn mà giáo viên ghi nhận được và phải suy nghĩ, diễn giải. Các quan 
sát chủ định và ngẫu nhiên của giáo viên đều là những kĩ thuật thu thập thông tin 
quan trọng trong lớp học. 
b) Phương pháp đánh giá qua hồ sơ học tập, các sản phẩm, hoạt động của 
học sinh: Giáo viên đưa ra các nhận xét, đánh giá về các sản phẩm, kết quả hoạt 
động của học sinh, từ đó đánh giá học sinh theo từng nội dung đánh giá có liên quan. 
- Đánh giá qua hồ sơ học tập là việc giáo viên đưa ra các nhận xét, đánh giá 
về các sản phẩm, kết quả hoạt động của học sinh, từ đó đánh giá học sinh theo từng 
nội dung đánh giá có liên quan. 
Hồ sơ học tập là tài liệu minh chứng cho sự tiến bộ của học sinh, trong đó 
học sinh tự đánh giá về bản thân, nêu những điểm mạnh, điểm yếu, sở thích của 
13 
mình, tự ghi lại kết quả học tập trong quá trình học tập của mình, tự đánh giá đối 
chiếu với mục tiêu học tập đã đặt ra để nhận ra sự tiến bộ hoặc chưa tiến bộ, tìm 
nguyên nhân và cách khắc phục trong thời gian tiếp theo, Hồ sơ học tập là một 
bằng chứng về những điều học sinh đã tiếp thu được. 
Hồ sơ học tập được sử dụng để xác định và điều chỉnh quá trình học tập của 
học sinh cũng như đánh giá hoạt động và mức độ đạt được. Tùy mục tiêu dạy học 
mà giáo viên có thể yêu cầu học sinh xây dựng các loại hồ sơ học tập khác nhau 
nhằm mục đích như: tự xây dựng kế hoạch học tập, xác định mục tiêu, động cơ 
học tập, tự đánh giá, 
Đánh giá qua hồ sơ là sự theo dõi, trao đổi những ghi chép, lưu giữ của 
chính học sinh về những gì các em đã nói, đã làm, cũng như ý thức, thái độ của học 
sinh với quá trình học tập của mình cũng như với mọi người Qua đó giúp học 
sinh thấy được những tiến bộ của mình và giáo viên thấy được khả năng của từng 
học sinh, từ đó giáo viên sẽ có những điều chỉnh cho phù hợp hoạt động dạy học 
và giáo dục. 
- Sản phẩm học tập là kết quả của hoạt động học tập của học sinh, là bằng 
chứng của sự vận dụng kiến thức, kĩ năng mà học sinh đã có. Thông qua sản phẩm 
học tập, giáo viên đánh giá sự tiến bộ của học sinh, đánh giá quá trình tạo ra sản 
phẩm và đánh giá mức độ đạt được các năng lực của học sinh. 
c) Phương pháp vấn đáp: Giáo viên trao đổi với học sinh thông qua việc 
hỏi-đáp để thu thập thông tin nhằm đưa ra những nhận xét, biện pháp giúp đỡ kịp thời. 
Vấn đáp thuộc nhóm phương pháp chủ yếu mà giáo viên thường sử dụng để 
thu thập dữ liệu trong kiểm tra đánh giá trên lớp thông qua việc hỏi-đáp. Đây là 
phương pháp giáo viên đặt câu hỏi và học sinh trả lời câu hỏi (hoặc ngược lại), 
nhằm rút ra những kết luận, những tri thức mới mà học sinh cần nắm, hoặc nhằm 
tổng kết, củng cố, kiểm tra mở rộng, đào sâu những tri thức mà học sinh đã học. 
Phương pháp vấn đáp cung cấp rất nhiều thông tin chính thức và không chính thức 
về học sinh. 
Tuỳ theo vị trí của phương pháp vấn đáp trong quá trình dạy học, cũng như 
tuỳ theo mục đích, nội dung của bài học, người ta phân biệt những dạng vấn đáp cơ 
bản sau: 
– Vấn đáp gợi mở: là hình thức giáo viên khéo léo đặt những câu hỏi gợi mở 
14 
dẫn dắt học sinh suy nghĩ, rút ra những nhận xét, những kết luận cần thiết từ những 
sự kiện đã quan sát được hoặc những tài liệu đã học được, được sử dụng khi cung 
cấp tri thức mới. 
Giáo viên sử dụng phương pháp này để dẫn dắt học sinh, giúp học sinh tự 
tìm ra lời giải thích hợp lý. Ví dụ: Điều gì sẽ xảy ra nếu trái đất ngừng quay? 
Hình thức này có tác dụng khơi dậy tính tích cực của học sinh rất mạnh, 
nhưng cũng đòi hỏi giáo viên phải khéo léo, tránh đi đường vòng, lan man, xa vấn 
đề. 
– Vấn đáp củng cố: được sử dụng sau khi giảng tri thức mới, giúp học sinh 
củng cố được những tri thức cơ bản nhất và hệ thống hoá chúng: mở rộng và đào 
sâu những tri thức đã thu lượm được, khắc phục tính thiếu chính xác của việc nắm 
tri thức. 
– Vấn đáp tổng kết: được sử dụng khi cần dẫn dắt học sinh khái quát hoá, hệ 
thống hoá những tri thức đã học sau một vấn đề, một phần, một chương hay một 
môn học nhất định. Dạng vấn đáp này giúp học sinh phát triển năng lực khái quát 
hoá, hệ thống hoá, tránh nắm bắt những đơn vị tri thức rời rạc – giúp cho các em 
phát huy tính mềm dẻo của tư duy. 
– Vấn đáp kiểm tra: được sử dụng trước, trong và sau giờ giảng hoặc sau 
một vài bài học, giúp giáo viên kiểm tra tri thức học sinh một cách nhanh gọn kịp 
thời để có thể bổ sung, củng cố tri thức ngay nếu cần thiết. Điều này cũng giúp học 
sinh tự kiểm tra tri thức của bản thân. 
– Vấn đáp trong đánh giá năng lực và phẩm chất: được sử dụng trong các 
hoạt động trải nghiệm thực tế, các cuộc thi tìm hiểu (như trò chơi rung chuông 
vàng, đường lên đỉnh Olympia...). Ví dụ: sau một hoạt động trải nghiệm, học sinh 
được yêu cầu trả lời một số câu hỏi (Điều bổ ích nhất qua hoạt động trải nghiệm 
này là gì?... những điều gì cần rút kinh nghiệm?) hoặc yêu cầu học sinh đưa ra một 
số các câu hỏi/kiến nghị... 
Như vậy là tuỳ vào mục đích và nội dung bài học, giáo viên có thể sử dụng 
một trong bốn hoặc cả bốn dạng vấn đáp nêu trên. Ví dụ: Khi dạy bài mới, giáo 
viên dùng dạng vấn đáp gợi mở: sau khi đã cung cấp tri thức mới, dùng vấn đáp 
củng cố để đảm bảo học sinh nắm chắc và đầy đủ tri thức; cuối giờ, dùng vấn đáp 
kiểm tra để có thông tin ngược kịp thời từ phía học sinh. 
15 
d) Phương pháp kiểm tra viết: Giáo viên sử dụng các bài kiểm tra gồm các 
câu hỏi, bài tập được thiết kế theo mức độ, yêu cầu cần đạt của chương trình, dưới 
hình thức trắc nghiệm, tự luận hoặc kết hợp trắc nghiệm và tự luận để đánh giá mức 
đạt được về các nội dung giáo dục cần đánh giá. 
Kiểm tra viết đề cập đến phương pháp kiểm tra, đánh giá mà giáo viên sử 
dụng các bài kiểm tra gồm các câu hỏi, bài tập được thiết kế theo năng lực, trong đó 
học sinh viết câu trả lời cho các câu hỏi hoặc vấn đề vào giấy để đánh giá mức đạt 
được về các nội dung giáo dục cần đánh giá. Đây chính là nhóm phương pháp kiểm 
tra, đánh giá kiểu truyền thống. Khi học sinh làm một bài kiểm tra trắc nghiệm đa 
lựa chọn, hoàn thành một bài tập về nhà dạng viết luận, viết một bản báo cáo, vẽ 
một bức tranh, viết một bài luận, hoặc điền vào một bảng ma trận ghi nhớ, bảng ma 
trận đặc trưng..., tức là các em đang cung cấp các chứng cứ bằng giấy mực cho giáo 
viên. Một trong các kỹ thuật đánh giá thường xuyên bằng phương pháp viết phổ 
biến nhất là cho học sinh làm bài kiểm tra viết với hai hình thức phổ biến: trắc 
nghiệm đa lựa chọn và tự luận. 
Các câu hỏi trắc nghiệm đa lựa chọn, câu hỏi kiểm tra đúng-sai và câu hỏi 
kiểm tra 

File đính kèm:

  • pdftai_lieu_hoat_dong_danh_gia_nang_luc_pham_chat_can_dat_hoat.pdf