Sáng kiến kinh nghiệm Rèn viết chữ đúng, đẹp cho học sinh lớp 2
Như chúng ta đã biết chữ viết là một trong những phát minh vĩ đại của con người. Từ khi ra đời chữ viết là công cụ đắc lực trong việc ghi lại, truyền bá toàn bộ kho tri thức của nhân loại. Chẳng những vậy con người còn coi chữ viết như một người bạn thường xuyên gần gũi, thân thiết với mình. Ngoài ra chữ viết cũng góp phần quan trọng trong việc rèn luyện phẩm chất đạo đức cho học sinh như tính cẩn thận, tính kỷ luật, khiếu thẩm mĩ. Ông cha ta ngày xưa thường nói “Nét chữ - nết người” mà nết người là sự hoà hợp về tình cảm và trí tuệ. Chữ đúng, đẹp không phải tự nhiên có mà phải trải qua một quá trình rèn luyện. Việc rèn chữ cho học sinh không phải chỉ tiến hành ở lớp đầu cấp mà phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, nhằm giúp các em viết đúng, viết đẹp.
Thực tế hiện nay, chữ viết của các em học sinh tiểu học nói chung, của lớp 2 nói riêng chưa được đẹp, chưa đúng mẫu, sự liên kết giữa các nét chữ hoặc liên kết giữa các chữ cái chưa chuẩn, tốc độ viết còn chậm, học sinh sử dụng nhiều loại bút - nhiều màu mực để viết bài nên còn hạn chế trong việc giữ gìn “vở sạch - viết chữ đẹp”. Đây là một mảng quan trọng có ảnh hưởng lớn đến chất lượng học sinh và được các trường quan tâm. Nâng cao chất lượng giờ dạy để học sinh viết đúng, viết nhanh, viết đẹp thì phong trào “vở sạch - chữ đẹp” mới có chất lượng.
Qua một thời gian trực tiếp giảng dạy ở Tiểu học nói chung và lớp 2 nói riêng tôi nhận thấy:
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Rèn viết chữ đúng, đẹp cho học sinh lớp 2
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN 1. Tên sáng kiến: "Rèn viết chữ đúng, đẹp cho học sinh lớp 2". 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: môn Tiếng Việt. 3. Tác giả: - Họ và tên: Vũ Đình Kế Nam - Ngày tháng/năm sinh: 14/8/1973 - Trình độ chuyên môn: Đại học - Chức vụ: Giáo viên. - Đơn vị công tác: Trường Tiểu học tân Việt - Điện thoại: 0904207747 4. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu: - Tên đơn vị: Trường Tiểu Tân Việt - Địa chỉ: xã Tân Việt – huyện Bình Giang – tỉnh Hải Dương - Điện thoại: 03203778041 5. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Áp dụng từ năm học 2017 - 2018. HỌ TÊN TÁC GIẢ XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN TÓM TẮT SÁNG KIẾN Như chúng ta đã biết chữ viết là một trong những phát minh vĩ đại của con người. Từ khi ra đời chữ viết là công cụ đắc lực trong việc ghi lại, truyền bá toàn bộ kho tri thức của nhân loại. Chẳng những vậy con người còn coi chữ viết như một người bạn thường xuyên gần gũi, thân thiết với mình. Ngoài ra chữ viết cũng góp phần quan trọng trong việc rèn luyện phẩm chất đạo đức cho học sinh như tính cẩn thận, tính kỷ luật, khiếu thẩm mĩ. Ông cha ta ngày xưa thường nói “Nét chữ - nết người” mà nết người là sự hoà hợp về tình cảm và trí tuệ. Chữ đúng, đẹp không phải tự nhiên có mà phải trải qua một quá trình rèn luyện. Việc rèn chữ cho học sinh không phải chỉ tiến hành ở lớp đầu cấp mà phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, nhằm giúp các em viết đúng, viết đẹp. Thực tế hiện nay, chữ viết của các em học sinh tiểu học nói chung, của lớp 2 nói riêng chưa được đẹp, chưa đúng mẫu, sự liên kết giữa các nét chữ hoặc liên kết giữa các chữ cái chưa chuẩn, tốc độ viết còn chậm, học sinh sử dụng nhiều loại bút - nhiều màu mực để viết bài nên còn hạn chế trong việc giữ gìn “vở sạch - viết chữ đẹp”. Đây là một mảng quan trọng có ảnh hưởng lớn đến chất lượng học sinh và được các trường quan tâm. Nâng cao chất lượng giờ dạy để học sinh viết đúng, viết nhanh, viết đẹp thì phong trào “vở sạch - chữ đẹp” mới có chất lượng. Qua một thời gian trực tiếp giảng dạy ở Tiểu học nói chung và lớp 2 nói riêng tôi nhận thấy: * Với học sinh: + Học sinh lớp 2 vừa ở lớp 1 lên, chính vì vậy nhiều học sinh còn viết sai về độ cao các con chữ (đặc biệt là ở những bài chính tả đầu tiên), nét chữ chưa chuẩn, sai cách ghi dấu thanh, khoảng cách giữa các con chữ. + Các em thường hay lẫn lộn và khó phân biệt đối với các cặp phụ âm dễ lẫn như: tr/ch; s/x; r/d/gi; l/n ... Chính vì vậy mà dẫn đến chất lượng chữ viết, đặc biệt là viết đúng chưa cao. Điều đáng nói ở đây là các em đọc, viết sai ngay cả những lỗi rất cơ bản và quen thuộc mà không cần biết rằng đọc, viết như vậy có ảnh hưởng gì đến nội dung bài viết hay câu văn hay không. Ví dụ: “Cả nớp đang nàm bài.” “Chường em dất đẹp.” . + Một số học sinh chưa nắm chắc quy tắc chính tả: ng - ngh, g - gh, c- k nên khi viết các em còn viết sai nhiều. Ví dụ: ngiêm, ngé + Một số học sinh còn ngọng nên khi viết hay mắc lỗi chính tả. + Học sinh chưa nắm chắc cách trình bày một bài viết chính tả. * Với giáo viên: + Trong các giờ chính tả, giáo viên chưa biết phối kết hợp linh hoạt các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, do đó tiết học chưa sôi nổi, chưa kích thích sự hứng thú học tập của học sinh. + Bản thân một số giáo viên chưa tìm được giải pháp tích cực trong việc sửa lỗi chính tả cho học sinh; việc chấm, chữa bài cho học sinh đôi khi chưa triệt để . + Việc chuẩn bị đồ dùng và sử dụng đồ dùng còn hạn chế. Xuất phát từ những lí do nói trên, tôi đã lựa chọn nghiên cứu sáng kiến: “Rèn viết chữ đúng, đẹp cho học sinh lớp 2". Để thực hiện được sáng kiến này bản thân tôi là giáo viên đã trực tiếp giảng dạy lớp 2. Bằng kinh nghiệm thực tế giảng dạy của mình, tôi đã tìm ra những nguyên nhân mà học sinh viết chữ chưa đúng, chưa đẹp và còn sai nhiều lỗi chính tả. Bởi vậy năm học 2017- 2018 tôi đã bắt tay vào thực hiện sáng kiến: “Rèn viết chữ đúng, đẹp cho học sinh lớp 2". Đối tượng áp dụng sáng kiến này là bản thân tôi và học sinh lớp 2 do tôi phụ trách. Ngoài ra sáng kiến có thể áp dụng rộng rãi cho tất cả các đối tượng học sinh ở Tiểu học nói chung. Cái được đầu tiên sau khi áp dụng sáng kiến: “Rèn viết chữ đúng, đẹp cho học sinh lớp 2" phải kể đến đó chính là giáo viên đã có sự chuyển đổi về nhận thức, đã tự giác chủ động học hỏi, tìm tòi, nghiên cứu để tích lũy cho bản thân những kiến thức cũng như kĩ năng về rèn luyện chữ viết cho học sinh, chất lượng bài dạy Chính tả, Tập viết cũng như các phân môn khác trong môn Tiếng Việt cũng tốt hơn, hấp dẫn với học sinh hơn. Các em rất hào hứng và thích học các phân môn trong môn Tiếng Việt, không còn cảm giác sợ, ngại học như trước. Hầu hết các em đều tập trung chú ý và cẩn thận, kiên trì hơn viết bài. Việc rèn kĩ năng viết chữ còn giúp các em cảm nhận được những giá trị nổi bật, vẻ đẹp của chữ viết thể hiện trong bài văn, bài thơ mà các em đã được học. Qua đó giúp các em viết được các bài chính tả, bài văn không còn mắc lỗi chính tả, chữ viết ngay ngắn, đều nét và trình bày sạch đẹp. Các em đã tự tin hơn khi tham gia các đợt khảo sát chất lượng theo đề của trường, của Phòng GD cũng như các đợt giao lưu Olympic học sinh giỏi các cấp, qua việc Thi viết chữ đẹp, chấm vở sạch chữ đẹp ... Chính vì các em nắm chắc được các kĩ thuật viết, các quy tắc, chất lượng chữ viết tương đối cao (luôn đạt từ 98% trở lên). Với những kết quả đã đạt được sau khi vận dụng sáng kiến "Rèn viết chữ đúng, đẹp cho học sinh lớp 2" vào giảng dạy đã phần nào giúp nhà trường thực hiện tốt mục tiêu và nhiệm vụ năm học. Tôi hy vọng sáng kiến này sẽ được bạn đọc nghiên cứu và vận dụng mang lại hiệu quả cao hơn. MÔ TẢ SÁNG KIẾN 1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến. Trẻ em đến trường là để được học đọc, học viết. Nếu phân môn Tập đọc giúp trẻ biết đọc thông thì phân môn Chính tả sẽ giúp trẻ viết thạo. Viết chữ là một trong những kĩ năng cơ bản của học sinh Tiểu học. Việc hình thành và xây dựng những kĩ năng viết chữ cho học sinh là một nội dung giáo dục quan trọng. Từ năm học 2001- 2002, Bộ giáo dục và Đào tạo đã có quyết định về việc tổ chức thi viết đẹp hàng năm cho giáo viên và học sinh Tiểu học. Cho đến nay đã khơi dậy trong học sinh, giáo viên và xã hội về ý thức cần viết chữ đẹp. Ngày 14/6/2002 Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo đã ban hành mẫu chữ viết. Đây chính là việc nhìn nhận tầm quan trọng và ý nghĩa của chữ viết. Dạy môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học nói chung và rèn chữ viết đúng đẹp nói riêng đang là vấn đề được các nhà trường, các nhà nghiên cứu và toàn xã hội quan tâm. Để dạy học sinh không chỉ viết đúng mà còn viết đẹp là một vấn đề khó. Do yếu tố vùng miền, cách phát âm mỗi nơi có sự khác nhau. Mặc dù quy tắc, quy ước về chính tả được thống nhất theo ngữ pháp chung nhưng việc rèn cho học sinh viết đúng chính tả và viết đẹp còn gặp nhiều khó khăn mà mỗi giáo viên và học sinh cần phải nỗ lực. Vậy vấn đề đặt ra là làm sao rèn chữ viết đúng, đẹp cho học sinh chính là yêu cầu bức xúc của người giáo viên. Bởi chữ viết là hết sức cần thiết và cấp bách. Qua nhiều năm trực tiếp đứng lớp với ý thức lương tâm, trách nhiệm nghề nghiệp tôi luôn suy nghĩ và trăn trở, không ngừng tích lũy kinh nghiệm về chữ viết để sớm giúp các em có được chữ viết đúng, đẹp. Xuất phát từ những lí do trên, tôi luôn suy nghĩ cần làm gì để nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh, góp phần giúp học sinh viết đúng, viết đẹp nên tôi đã tập trung nghiên cứu và mạnh dạn chọn đề tài: “Rèn viết chữ đúng, đẹp cho học sinh lớp 2" mà tôi đã vận dụng có hiệu quả để các động nghiệp tham khảo. 2. Thực trạng của vấn đề: Qua thực tế giảng dạy ở lớp 2, qua dự giờ thăm lớp, chấm, chữa bài cho học sinh, tôi nhận thấy: 2.1 – Thuận lợi: - Trường Tiểu học nơi tôi đang công tác là một trường vốn có bề dày truyền thống hiếu học. Trường có đội ngũ cán bộ trẻ, năng động, sáng tạo, nhiệt tình, dám nghĩ dám làm hết lòng tận tuỵ với công việc, với sự nghiệp “Trăm năm trồng người” mà Đảng và nhà nước giao cho. Trường có đội ngũ giáo viên yêu nghề mến trẻ, hết lòng vì học sinh thân yêu. Trường đã nhiều năm liền đạt danh hiệu là trường Tiên tiến, có nhiều thành tích đáng kể về mọi mặt. Đặc biệt nhất là phong trào thi đua: “Giữ vở sạch - Viết chữ đẹp – Rèn phát âm chuẩn”, đã có rất nhiều giáo viên, học sinh đạt giải cao trong hội thi: “Viết chữ đẹp” cấp trường, cấp huyện. - Ban giám hiệu nhà trường, các cấp lãnh đạo xã và ngành giáo dục rất quan tâm đến học sinh đặc biệt nhất là học sinh lớp 1-2, các em được học ở một ngôi trường khang trang sạch đẹp, ngồi học bàn ghế chuẩn đối với lứa tuổi các em. - Nhà trường đã đầu tư cơ sở vật chất: ánh sáng (số lượng bóng điện đủ để chiếu sáng) trong phòng học, bảng chữ mẫu (với nhiều kiểu chữ khác nhau), bảng phụ, bảng lớp chống loá - Phòng Thư viện cung cấp đầy đủ đồ dùng như: Bộ chữ dạy Tập viết chữ thường và chữ hoa của nhà xuất bản Giáo dục. Mỗi lớp đều có bảng chữ cái theo mẫu chữ quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. - Mỗi giáo viên được trang bị một bộ chữ dạy tập viết do Nhà xuất bản Giáo dục sản xuất. - Giáo viên được tham dự tập huấn những chuyên đề về Tập viết và các cuộc thi “Viết chữ đẹp”, “Triển lãm vở sạch chữ đẹp” hàng năm do trường hoặc Phòng giáo dục tổ chức để học hỏi, trao đổi kinh nghiệm và trau dồi kiến thức. - Học sinh lớp 2 mới đi học nên các em rất thích đến trường để học. - Đa số các phụ huynh có con em học lớp 2 đều quan tâm đến việc học tập của con em mình. Các em có đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập theo yêu cầu của giáo viên. - Môi trường giao tiếp, phương tiện, thông tin đại chúng thuận lợi cho việc dạy và học tập. Tôi thấy đây chính là một môi trường giáo dục hết sức thuận lợi để chúng ta tiến hành rèn luyện viết chữ đúng đẹp cho học sinh ngay từ đầu năm học. 2.2 – Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi vừa nêu trên tôi thấy rằng trong thực tế quá trình giảng dạy việc luyện viết chữ đúng đẹp cho học sinh ở trường học, lớp học vẫn còn gặp không ít những khó khăn đối với giáo viên và học sinh. Sau đây tôi sẽ nêu một số khó khăn mà chúng ta cần phải khắc phục để giúp học sinh viết đúng và đẹp ngay từ những năm đầu tiên đi học. 2.2.1- Về phía giáo viên: - Một số ít giáoviên chưa hiểu rõ bản chất của các nguyên tắc và phương pháp dạy học phân môn Tập viết, Chính tả, thường có quan niệm xem nhẹ giờ Tập viết, Chính tả, luôn coi đó là phân môn phụ. - Một số giáo viên chưa hiểu rõ được vai trò, tác dụng của một số phương tiện trực quan trong giờ Chính tả, Tập viết như bảng con, chữ mẫu. - Một số giáo viên chưa có sự thống nhất về tên gọi của các nét chữ, con chữ trong một giờ dạy Tập viết. Chưa có sự kết hợp đồng bộ với các môn học khác như: Luyện từ và câu, Tập đọc, Tập làm văn để giúp học sinh đọc đúng, đọc hiểu, từ đó dẫn đến viết đúng, viết đẹp. - Một số giáo viên chưa nắm được kỹ thuật viết chữ, cách gọi các thuật ngữ khi dạy viết chữ Tiếng Việt như: chữ ghi âm, chữ ghi vần, chữ ghi tiếng, chữ ghi từ. Mặt khác còn nhiều giáo viên còn nhầm lẫn giữa cách rê bút, cách lia bút, điểm đặt bút, điểm dừng bút, cách nối chữ khi viết. - Một số giáo viên chưa có sự phối hợp chặt chẽ với gia đình học sinh trong lớp chủ nhiệm, điều đó hạn chế việc tạo điều kiện về tinh thần, vật chất cho học sinh và việc rèn luyện chữ viết trong phong trào “Vở sạch - Chữ đẹp”. Đa số giáo viên còn coi nhẹ việc hình thành nề nếp học của học sinh chưa chú ý đến tư thế ngồi viết, cách cầm bút, để vở của học sinh. 2.2.2- Về phía học sinh: - Lớp 2 các em còn nhỏ, nhận thức của các em không đồng đều. Bên cạnh đó, việc giáo dục cho các em những phẩm chất Đạo đức tốt như: Tính cẩn thận, tính kỷ luật và khiếu thẩm mỹ chưa được quan tâm đúng mức. Điều này có liên quan đến việc dạy phân môn Tập viết cho học sinh Tiểu học. Mặt khác, từ môi trường hoạt động vui chơi là chính chuyển sang môi trường chủ yếu là hoạt động học tập, các em phải đọc, phải viết nhiều hơn, gây mỏi tay, mỏi mắtdẫn đến tình trạng uể oải, nản trí, ngại viết. - Việc làm quen với chữ viết đối với các em thật khó khăn bởi đôi tay còn vụng về, lóng ngóng. - Học sinh chưa thực hiện tốt, nghiêm túc các quy định trong giờ Tập viết như: + Cầm bút chưa đúng cách. + Ngồi viết chưa đúng tư thế. + Vị trí đặt vở khi viết chưa đúng. - Đa số học sinh chưa nắm được kĩ thuật viết, cách rê bút, cách lia bút, nét nối, điểm đặt bút, điểm dừng bút trong một chữ ghi tiếng và khoảng cách giữa các chữ ghi tiếng, ghi từ. - Một số em còn thiếu đồ dùng học tập, một số em chưa học qua mẫu giáo. Bản thân các em chưa phát huy được tính tự học, tự rèn luyện ở trường cũng như ở nhà. Các em còn ham chơi chưa chú ý đến học tập. 2.2.3- Về phía phụ huynh học sinh: - Còn nhiều phụ huynh chưa đôn đốc nhắc nhở, còn thờ ơ với việc học tập của các em. Phần lớn các phụ huynh chưa nắm được chữ mẫu, quy trình viết của chữ nên còn hạn chế trong việc hướng dẫn con em mình học ở nhà. 2.3. Nguyên nhân của thực trạng: 2.3.1. Về phía học sinh: - Các em chưa nắm chắc về âm vần nên khi phân tích để viết một số tiếng khó còn lúng túng, không phân tích được. - Một số học sinh tư thế ngồi viết và cách cầm bút chưa đúng. - Đôi lúc các em còn viết ngoáy, ý thức chưa cao, chưa tự giác rèn chữ viết. - Các em đa phần là con nông dân, tuy điều kiện vật chất đầy đủ nhưng điều kiện hướng dẫn các em viết bài hoặc dạy các em tư thế ngồi hoặc cách cầm bút thì hạn chế nên không sửa cho các em được hoặc có sửa thì cũng không đúng.. - Một nguyên nhân nữa là do khối lượng kiến thức của lớp 2 so với lớp 1 nhiều hơn nên học sinh phải tăng tốc độ viết trong giờ học, giờ làm bài nên chữ viết thường không nắn nót, không viết đúng quy cách, sai kích cỡ, khoảng cách giữa các chữ không đều. Hiện tượng viết sai nét, sai cỡ chữ, hở nét, thừa nét, thiếu dấu hoặc đánh dấu không đúng vị trí diễn ra thường xuyên. 2.3.2. Về phía giáo viên: - Giáo viên luôn quan tâm đến phong trào vở sạch chữ đẹp, chấm chữa bài cho học sinh thường xuyên. Giáo viên mới chú trọng đến chữ viết đúng nên khi học sinh viết sai chữ thì giáo viên gạch chân lỗi sai, còn khi học sinh viết sai nét, giáo viên đều bỏ qua. Vì vậy, khi giáo viên nhận xét, đánh giá bài viết của các em, các em không biết phải sửa thế nào cho đúng, cho đẹp. - Bản thân một số giáo viên còn sửa qua loa. - Trong các giờ chính tả, giáo viên chưa biết phối kết hợp linh hoạt các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, do đó tiết học chưa sôi nổi, chưa kích thích sự hứng thú học tập của học sinh. 2.3.3. Về phía phụ huynh: - Một số em có cả bố mẹ đi làm ăn xa để mặc các em ở nhà với ông bà già. - Bản thân một số phụ huynh còn viết sai chính tả. Cụ thể khi trao đổi với giáo viên chủ nhiệm qua sổ liên lạc. Vậy khi học sinh nói sai, viết sai không được sửa và khi nhìn thấy phụ huynh viết sai thì các em cho đó là đúng, đâu có biết như vậy là sai. Chỉ có phần ít là các em biết phát hiện đúng sai, do đó các em cứ theo cái sai đó dẫn đến các em sẽ viết sai. 2.3.4. Một số nguyên nhân khác - Học sinh lớp 2 vừa ở lớp 1 lên, các em mới bắt đầu viết chữ một ly từ tuần 25, như vậy các em mới được luyện viết chính tả 11 tuần sau đó các em lại nghỉ hè ba tháng. Trong thời gian nghỉ hè hầu như là các em chỉ ôn lại bài đọc mà không chú ý đến viết chính tả và luyện chữ nên khi vào năm học mới, lên lớp 2 bài chính tả đầu tiên các em viết sai nhiều và không đúng cỡ chữ. 3. Các giải pháp thực hiện: Để giúp học sinh lớp 2 viết đúng, viết đẹp và trình bày đúng, đẹp đoạn văn, thơ tôi đã sử dụng một số giải pháp sau: 3.1- Chuẩn bị đầy đủ điều kiện vật chất, thiết bị dạy - học: Việc chuẩn bị đầy đủ cơ sở vật chất và các thiết bị dạy học học của nhà trường, giáo viên và học sinh là một khâu quan trọng trong quá trình dạy- học ở Tiểu học. Đó chính là điều kiện dẫn tới sự thành công của việc dạy - học ở bất cứ môn học nào đặc biệt nhất là phân môn dạy Chính tả, Tập viết trong trường tiểu học. 3.1.1- Ánh sáng phòng học: - Phòng học phải đủ ánh sáng cho mọi học sinh ngồi học theo quy định của vệ sinh học đường. - Mỗi phòng cần có 4 bóng đèn tuýp 1,2m. 3.1.2- Bảng lớp: - Bảng lớp được treo ở độ cao vừa phải ngang tầm với đầu học sinh ngồi học. Kích thước 1,2m x 2,9m. - Chất lượng bảng chống loá, trên bảng có dòng kẻ phù hợp, bên phải là dòng kẻ ô li nhỏ giống như trong vở Tập viết của học sinh để giáo viên viết mẫu và hướng dẫn viết vở. - Bảng lớp phải luôn luôn được xoá sạch bằng khăn lau sạch, có độ ẩm vừa phải. 3.1.3- Bàn ghế học sinh: - Bàn ghế học sinh: Đầy đủ về số lượng và đảm bảo về chất lượng. Trung bình 2 học sinh/1 bàn. Tránh tình trạng học sinh ngồi chật chội sẽ khó viết. - Kích thước bàn ghế phải phù hợp với độ cao trung bình của học sinh lớp 2. 3.1.4- Bảng con, phấn, giẻ lau, bút viết: - Chất lượng: Yêu cầu học sinh dùng bảng Mic hai mặt có dòng kẻ ô li giống trong vở Tập viết của các em. Phấn Mic hoặc phấn Thiên Long trắng có chất liệu tốt, không dùng phấn cứng quá hoặc kém chất lượng. Giẻ lau phải mềm, sợi bông thấm nước, giữ độ ẩm vừa phải, có thể gấp nhiều lần, độ dày thích hợp và luôn sạch. - Số lượng: Bảng con, giẻ lau đảm bảo đủ cho từng học sinh mỗi em một cái, học sinh phải có hộp đựng phấn. - Bút viết: Yêu cầu học sinh viết bút chữ A hoặc bút mực (Không được viết bút bi) 3.2- Cách sử dụng đồ dùng dạy - học khi viết: Đồ dùng dạy học là yếu tố không thể thiếu trong quá trình dạy học. Trong quá trình dạy học, học sinh nhận thức nội dung bài học dưới sự tổ chức dẫn dắt của giáo viên có sự hỗ trợ của các đồ dùng dạy học. Tư duy của học sinh lớp 2 chủ yếu từ trực quan cụ thể đến lôgic trừu tượng. Đồ dùng dạy học giúp học sinh khắc sâu các biểu tượng về chữ viết bằng nhiều con đường: mắt nhìn, tai nghe, tay viết. Qua đó sẽ chủ động phân tích hình dáng, kích thước, cấu tạo của chữ mẫu, tìm sự giống nhau và khác nhau giữa chữ cái đang học với chữ cái đã học. Vì vậy đồ dùng dạy học đưa ra phải đảm bảo tính khoa học, đúng lúc, đúng chỗ, nhịp nhàng và phù hợp với nội dung bài dạy. Tránh lạm dụng đồ dùng dạy học gây sự nhàm chán cho học sinh. Đồ dùng dạy - học chủ yếu ở lớp 2 là: Bảng con, phấn trắng, giẻ lau, vở Tập viết, vở Chính tả của học sinh và bảng phụ có kẻ ô li viết sẵn chữ mẫu của giáo viên, chữ mẫu trong khung chữ của bộ chữ dạy Tập viết của giáo viên, hoặc chữ mẫu trong các bài giảng điện tử mà giáo viên đã cài đặt. Việc sử dụng tốt các đồ dùng dạy học giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách nhẹ nhàng dễ hiểu, giáo viên không phải nói nhiều gây căng thẳng, nhàm trán trong giờ học. Để giúp học sinh có kĩ năng, kĩ xảo sử dụng đồ dùng học tập đúng cách và thành thạo đạt hiệu quả cao khi viết bài, tôi thường hướng dẫn học sinh thực hiện theo yêu cầu của giáo viên. 3.2.1- Cách sử dụng đồ dùng dạy - học khi viết bảng con: - Bảng con phải luôn luôn được lau sạch sẽ bằng khăn lau sạch. - Học sinh viết bảng con: Yêu cầu ngồi viết đúng tư thế, cầm và điều khiển phấn đúng cách, giơ bảng và xoá bảng theo các lệnh của giáo viên: Lệnh 1: Giáo viên gõ một tiếng thước yêu cầu học sinh viết chữ vào bảng con. Lệnh 2: Giáo viên gõ tiếng thước thứ hai yêu cầu học sinh giơ bảng ngay ngắn. Lệnh 3: Giáo viên gõ tiếng thước thứ ba học sinh bỏ bảng xuống. Lệnh4: Giáo viên gõ tiếng thước thứ tư học sinh đọc và xoá bảng. 3.2.2- Cách sử dụng đồ dùng dạy - học khi viết vở: - Vở Tập viết, Chính tả nói riêng và các loại vở khác nói chung của học sinh cần bọc bìa, dán nhãn vở, giữ gìn sạch sẽ, không để quăn mép, hoặc giây bẩn. - Bút mực cần sử dụng loại bút có quản, ngòi bút nét thanh, nét đậm ra đều mực. Để tránh bẩn tay tôi thường hướng dẫn học sinh tỉ mỉ cách lấy mực, đậy nắp và lau sạch mực ở phần ngoài của bút bằng giấy lau thấm. 3.3- Hướng dẫn học sinh thực hiện tốt nề nếp học tập, tư thế ngồi viết, cách cầm bút, để vở và cách trình bày bài viết: 3.3.1- Một số quy định về nề nếp học tập: Tôi hướng dẫn cho học sinh nắm được một số các kí hiệu mà tôi đã quy định và ghi kí hiệu này lên góc trái phía trên bảng để các em thực hiện trong các giờ học như sau: - Kí hiệu ngồi đúng tư thế học tập và trật tự khi giáo viên chỉ vào trong hình: - Kí hiệu lấy bảng khi giáo viên chỉ vào trong hình, cất bảng khi giáo viên chỉ ra ngoài hình: - Kí hiệu V: vở ( mở vở khi giáo viên chỉ vào kí hiệu ) - Kí hiệu ngồi giãn khoảng cách khi giáo viên chỉ vào hình: - Kí hiệu ngồi thẳng lưng khi giáo viên chỉ vào hình: Việc hướng dẫn học sinh thực hiện tốt các kí hiệu trên nhằm mục đích đảm bảo tính kỉ luật, trật tự trong lớp học, giúp học sinh tập trung chú ý vào các hoạt động học tập tránh gây mất trật tự và lộn xộn trong giờ học nhất là khi thao tác sử dụng đồ dùng học tập. 3.3.2- Tư thế ngồi viết: Để học sinh có thể tránh được một số bệnh học đường trong trường học như: bệnh cong vẹo cột sống, bệnh cận thị thì ngay từ đầu năm học giáo viên phải luyện cho học sinh có được một tư thế ngồi viết thật đúng, thật thoải mái. Muốn vậy, người giáo viên phải có tư thế ngồi thật đúng để học sinh bắt trước. Ngay từ những tiết học đầu tiên tôi đã làm mẫu kết hợp giải thích, hướng dẫn rất tỉ mỉ về từng động tác tư thế ngồi học để các em hiểu và làm theo như sau: - Lưng thẳng; không tì ngực vào bàn. - Đầu hơi cúi, mắt cách vở 25 - 30cm. - Tay phải cầm bút, tay trái tì nhẹ lên mép vở để giữ. - Hai vai ngang bằng. - Hai chân để song song vuông góc với mặt đất, thoải mái. Học sinh mới vào lớp 2, đầu năm học chưa thành thạo về khái niệm đơn vị đo độ dài nên chưa thể tự ước lượng được khoảng cách từ 25cm - 30cm nên tôi cho học sinh chống cùi chỏ tay trên mặt bàn, ngửa bàn tay ra, áp trán vào sát lòng bàn tay để ước lượng khoảng cách mặt với vở và luôn giữ ở vị trí cố định như vậy khi viết, em nào quên có thể tự ước lượng lại được. 3.3.3- Cách cầm bút: - Cầm bút bằng ba đầu ngón tay: ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa. - Khi viết dùng ba ngón tay di chuyển bút từ trái sang phải, cán bút nghiêng về bên phải, cổ tay, khuỷ tay và cánh tay cử động mềm mại, thoải mái. - Không nên cầm bút tay trái. Tôi cũng làm mẫu và hướng dẫn tỉ mỉ cách cầm bút: Ngón cái và ngón trỏ đặt ở phía trên, ngón giữa ở phía dưới đỡ đầu bút cách đầu bút khoảng 1 đốt ngón tay. Cầm bút xuôi theo chiều ngồi, bút đặt nghiêng so với giấy khoảng . Tuyệt đối không cầm bút dựng đứng . Khi viết đưa bút từ trái qua phải, từ trên xuống dưới, các nét đưa lên hoặc đưa sang ngang phải nhẹ tay. 3.3.4- Cách để vở, xê dịch vở khi viết: Khi viết chữ đứng học sinh cần để vở ngay ngắn trước mặt. Nếu tập viết chữ nghiêng (tự chọn) cần để vở hơi nghiêng sao cho mép vở phía dưới cùng với mép bàn tạo thành một góc khoảng . Khi viết độ nghiêng của nét chữ cùng với mép bàn sẽ tạo thành một góc vuông như vậy dù viết theo kiểu chữ đứng hay chữ nghiêng, nét chữ luôn thẳng đứng trước mặt (chỉ khác nhau về cách để vở). Khi viết xuống những dòng dưới, các em tự đẩy vở lên trên để cánh tay luôn tì lên mặt bàn làm điểm tựa khi viết. - Trước lúc viết tôi thường cho học sinh nhắc lại tư thế ngồi học, cách cầm bút để vở để học sinh thực hiện theo đúng quy định. Trong quá trình học sinh viết rất hay quên, thay đổi tư thế ngồi đúng, lúc đó tôi lại phải kiên nhẫn chỉnh sửa cho từng em. Lặp đi lặp lại nhiều lần, các em cũng dần dần ngồi đúng, cầm bút đúng. - Mặt khác tôi phô tô gửi mỗi phụ huynh một bản hướng dẫn về tư thế ngồi học, cách cầm bút, để vở. Khuyên phụ huynh mua bảng chữ mẫu viết thường của Bộ Giáo dục và Đào tạo để hướng dẫn học sinh luyện viết ở nhà. 3.4- Giáo viên cần nắm chắc kiến thức, viết tốt mẫu chữ quy định để dạy học sinh. Việc nắm chắc các mẫu chữ hiện hành theo chuẩn của Bộ Giáo dục và Đào tạo và việc viết tốt mẫu chữ quy định là một yêu cầu cần thiết không thể thiếu được đối với người giáo viên Tiểu học. Đây chính là một tiêu chí mà mọi giáo viên phải đặt ra và thực hiện. Có nắm chắc các mẫu chữ thì giáo viên mới viết đúng và đẹp theo chuẩn được từ đó mới hướng được dẫn học sinh viết đúng và đẹp. Chữ mẫu của giáo viên được coi như “khuôn vàng, thước ngọc”, chuẩn mực để học sinh noi theo. Lứa tuổi của các em là lứa tuổi hay “bắt chước” và làm theo mẫu. Giáo viên viết như thế nào thì học sinh viết như thế. Đặc biệt là học sinh lớp 2. Người giáo viên phải coi trọng việc trình bày trên bảng là trang viết mẫu mực của mình để học sinh học tập. Do vậy tôi thường xuyên phải tự luyện chữ sao cho đúng và đẹp. Mỗi năm học tôi đều có vở tập viết của mình viết sẵn, vừa để luyện chữ vừa thuận tiện cho việc hướng dẫn và làm mẫu cho học sinh tập viết. Tôi còn sưu tầm những bài viết, vở viết sạch đẹp của học sinh những năm học trước để giới thiệu cho học sinh học tập. Việc viết mẫu của giáo viên là một thao tác trực quan trên bảng lớp giúp học sinh nắm bắt được quy trình từng nét của chữ cái. Do vậy khi viết mẫu cho học sinh tôi viết chậm lại đủ để cho học sinh quan sát, vừa viết vừa kết hợp nhịp nhàng với giảng giải, phân tích: Đặt bút từ điểm nào, rê bút như thế nào, đưa bút vào vị trí nào, thứ tự các nét viết ra sao, dừng bút ở điểm nào? Tôi phân tích cả cách viết dấu phụ, dấu thanh để học sinh dễ dàng nhận biết được cách viết. Tôi hướng dẫn cả về khoảng cách giữa các chữ ghi tiếng (bằng một con chữ o) để học sinh không viết sát quá hoặc cách xa quá. Đồng thời tư thế đứng viết của giáo viên cũng phải hợp lý để học sinh quan sát được tay của cô khi viết và theo dõi được cả quy trình viết chữ. Khi hướng dẫn viết mẫu trên bảng lớp lời nói của giáo viên phải nhẹ nhàng, gần gũi, chuẩn mực và dễ hiểu, tránh dùng các khái niệm khó hiểu hoặc cách nói mơ hồ không rõ ràng, nên dùng đúng các thuật ngữ cách gọi khi dạy viết chữ Tiếng Việt như: chữ ghi âm, chữ ghi vần, chữ ghi tiếng, chữ ghi từ... Hướng dẫn tỉ mỉ cách viết từng con chữ, nét nối chính xác theo đúng quy định cho học sinh. Không nên nói nôm, nói ngọng, nói lộn xộn hoặc nói quá nhiều gây căng thẳng khó hiểu cho học sinh. Sau đây là mẫu chữ cái viết thường trong trường Tiểu học mà tôi đã tìm hiểu và nghiên cứu: + Mẫu chữ cái viết thường cỡ nhỏ: - Các chữ cái được viết với độ cao 1 đơn vị: o, ô, ơ, a, ă, â, u, ư, i, c, e, ê, n, m. - Các chữ cái được viết với độ cao 2,5 đơn vị: b, l, h, k, g, y. - Các chữ cái được viết với độ cao 2 đơn vị: d, đ, q, p. - Các chữ cái được viết với độ cao 1,5 đơn vị: t. - Các chữ cái được viết với độ cao 1,25 đơn vị: r, s. - Các dấu thanh được viết trong phạm vi 1 ô vuông có cạnh 0,5 đơn vị. + Mẫu chữ cái viết hoa cỡ nhỏ: - Các chữ cái được viết với độ cao 2,5 đơn vị, riêng hai chữ cái được viết với độ cao 4 đơn vị là: Y, G. + Mẫu chữ số được viết với độ cao 2 đơn vị. 3.5- Rèn cho học sinh kỹ thuật viết đúng, viết đẹp: 3.5.1- Dạy học sinh viết đúng, viết đẹp thành thạo các nét cơ bản: Trước tiên tôi hướng dẫn cho học sinh nắm chắc và viết tốt các nét cơ bản của chữ. Nắm được tên gọi và cấu tạo của từng nét cơ bản bao gồm: Nét ngang, nét sổ, nét xiên trái, nét xiên phải, nét móc xuôi, nét móc ngược, nét móc hai đầu (là kết hợp của nét móc xuôi và nét móc ngược), nét cong hở phải, nét cong hở trái, nét cong khép kín, nét khuyết trên, nét khuyết dưới, nét thắt . Việc nắm chắc cách viết, viết đúng, viết đẹp thành thạo các nét cơ bản sẽ nắm được cấu tạo của từng chữ cái giúp cho việc nối các nét thành chữ cái sẽ dễ dàng hơn. Sau đó tôi dạy học sinh cách xác định toạ độ của điểm đặt bút và điểm dừng bút phải dựa trên khung chữ làm chuẩn. Hướng dẫn học sinh hiểu điểm đặt bút là điểm bắt đầu khi viết một nét trong một chữ cái hay một chữ. Điểm dừng bút là vị trí kết thúc của nét chữ đa số điểm kết thúc ở 1/3 đơn vị chiều cao của thân chữ. Riêng đối với con chữ o vì là nét cong tròn khép kín nên điểm đặt bút trùng với điểm dừng bút. Để chữ viết không bị rời rạc, đứt nét tôi nhấn mạnh hơn chỗ nối nét, nhắc các em viết đều nét, liền mạch đúng kĩ thuật. 3.5.2- Rèn viết đúng trọng tâm các nhóm chữ: Căn cứ vào đặc điểm cấu tạo nét và mối quan hệ về cách viết các chữ cái, để học sinh viết đúng kĩ thuật, viết đẹp, nắm chắc mẫu chữ. Tôi chia chữ viết thành các nhóm và xác định trọng tâm đại diện cho mỗi nhóm chữ gồm những nét nào, những nét chữ nào học sinh hay viết sai, học sinh gặp khó khăn gì khi viết các nhóm chữ đó để khắc phục nhược điểm giúp học sinh viết đúng và đẹp mẫu chữ trong trường Tiểu học cỡ nhỏ như sau: - Nhóm 1: Gồm các chữ: m, n, u, ư, i, t, v,r, p. + Các lỗi học sinh hay mắc: Viết chưa đúng nét nối giữa các nét, nét móc hay bị đổ nghiêng, nét hất lên thường bị choãi chân ra không đúng. + Cách khắc phục: Tôi cho học sinh luyện viết nét sổ có độ cao 1 ô li, sau đó mới viết nét móc xuôi, nét móc ngược, nét móc hai đầu có độ cao 1 ô li thật đúng, thật thẳng. Khi học sinh viết thành thạo các nét đó, tôi mới cho học sinh ghép các nét thành chữ. Khi ghép chữ tôi luôn chú ý điểm đặt bút, điểm dừng bút, độ cao, độ rộng của mỗi nét để chữ viết cân đối, đẹp. - Nhóm 2: Gồm các chữ: b, l, h, k, y. + Các lỗi học sinh hay mắc: Học sinh hay viết sai điểm giao nhau của nét, chữ viết còn cong vẹo. + Cách khắc phục: Trước tiên tôi cho học sinh viết nét sổ có độ cao 2.5 ô li một cách ngay ngắn, thành thạo để rèn tư thế cầm bút chắc chắn cho học sinh, sau đó tôi dạy học sinh viết nét khuyết trên có độ cao 2.5 ô li, độ rộng trong lòng 1 ô li. Để giúp học sinh viết đúng điểm giao nhau của các nét khuyết, tôi hướng dẫn học sinh đặt một dấu chấm nhỏ vào sát đường kẻ dọc, trên dòng kẻ ngang 2 của li thứ hai và rèn cho học sinh luôn đưa bút từ điểm bắt đầu qua đúng chấm rồi mới đưa bút lên tiếp viết nét khuyết trên có độ rộng bằng 1 li. Tương tự như vậy tôi dạy học sinh viết nét khuyết dưới có độ cao 2.5 ô li, độ rộng 1 ô li. - Khi dạy viết chữ h, tôi hướng dẫn Viết nét khuyết trên trước, từ điểm dừng bút của nét khuyết trên ở ĐK ngang 1 rê bút viết tiếp nét móc hai đầu có độ cao 1.5 li, độ rộng 1 li dừng bút ở ĐK ngang 2. Tương tự như vậy với các chữ còn lại. - Nhóm 3: Gồm các chữ: o, ô, ơ,a, ă, â, c, x, d, đ, q, g, e, ê, s. + Các lỗi học sinh hay mắc: viết chữ o chiều ngang quá rộng hoặc quá hẹp, nét chữ không tròn đều đầu to, đầu bé, chữ o méo. Hầu hết các em viết chữ o xấu. + Cách khắc phục: Để viết được đúng và đẹp nhóm chữ này thì cần phải viết chữ o đúng và đẹp tròn theo quy định. Tôi cho học sinh chấm 4 điểm vuông góc đều nhau như đ
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_ren_viet_chu_dung_dep_cho_hoc_sinh_lop.doc