Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 3 qua tiết “Tập làm văn miệng”

1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến:

Học phân môn Tập làm văn giúp các em có điều kiện tiếp cận với vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Nam, có cơ hội bộc lộ cảm xúc, mở rộng vốn từ, tâm hồn và phát triển nhân cách con người Việt Nam phù hợp với xã hội mới.
          Việc giảng dạy tốt phân môn Tập làm văn góp phần vô cùng quan trọng trong việc rèn cho học sinh tính suy luận, tư duy độc lập, linh hoạt trong giao tiếp, ứng xử tốt trong các tình huống. Đặc biệt giúp các em vận dụng tốt vốn từ cách hiểu nghĩa các văn bản để học tốt hơn các môn học khác, giáo dục các em tính nhẫn lại và ý trí vươn lên trong cuộc sống.

2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến:

- Áp dụng cho học sinh khối lớp 3.

- Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Năm học 2020 – 2021

3. Nội dung sáng kiến:

Việc dạy Tập làm văn ở Tiểu học góp phần rèn luyện cho học sinh kĩ năng sử dụng tiếng mẹ đẻ, tạo điều kiện cho các em giao tiếp trong cuộc sống hằng ngày và vận dụng học tốt các môn học khác. Tiếng Việt cung cấp cho các em một hệ thống các kiến thức, rèn các kĩ năng một cách linh hoạt, thực tế và có hệ thống hơn trong mọi hoạt động.

-Trong khuôn khổ một đề tài tôi xin trình bày kĩ về việc  Rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 3 qua tiết “Tập làm văn miệng” bằng những biện pháp cùng phương pháp giúp học sinh nói đúng và nói hay hơn ở tất cả các thể loại văn bản mà các em được biết.

doc 40 trang Huy Khiêm 01/10/2023 3160
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 3 qua tiết “Tập làm văn miệng”", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 3 qua tiết “Tập làm văn miệng”

Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 3 qua tiết “Tập làm văn miệng”
UBND HUYỆN BÌNH GIANG
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
________&_________
BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN
RÈN KĨ NĂNG NÓI CHO HỌC SINH LỚP 3 QUA TIẾT "TẬP LÀM VĂN MIỆNG"
MÔN: TIẾNG VIỆT
Năm học 2020 - 2021
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến.
1
2. Cơ sở lý luận của vấn đề.
2
3.Thực trạng vấn đề.
3
4. Các giải pháp thực hiện
6
4.1. Giải pháp chung
6
4.2. Giải pháp cho từng dạng bài cụ thể
16
4.3. Tổ chức các hoạt động trải nghiệm
27
5. Kết quả đạt được
28
6. Bài học kinh nghiệm
29
7. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng
29
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
31
2. Khuyến nghị.
32
GIÁO ÁN MINH HỌA
33
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
 1. Tên sáng kiến: Rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 3 qua tiết “Tập làm văn miệng”
2. Bộ môn áp dụng sáng kiến:
 Trong môn Tiếng Việt ở các trường Tiểu học, đặc biệt là phân môn Tập văn lớp 3.
3. Tác giả: 
Họ và tên: Vũ Cao Cường Nam
Ngày/tháng/năm sinh: 01/01/1983
Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm
Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên Trường Tiểu học Tân Việt.
Số điện thoại: 0345059784
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trường Tiểu học Tân Việt 
Địa chỉ: Xã Tân Việt – huyện Bình Giang - tỉnh Hải Dương
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu: Trường Tiểu học Tân Việt- Bình Giang - Hải Dương
6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Giáo viên, học sinh, cơ sở vật chất phục vụ cho giảng dạy phân môn Tập làm văn
 7. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Năm học 2020-2021
TÁC GIẢ
XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
 Vũ Cao Cường
TÓM TẮT SÁNG KIẾN
	1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến:
Học phân môn Tập làm văn giúp các em có điều kiện tiếp cận với vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Nam, có cơ hội bộc lộ cảm xúc, mở rộng vốn từ, tâm hồn và phát triển nhân cách con người Việt Nam phù hợp với xã hội mới.
 Việc giảng dạy tốt phân môn Tập làm văn góp phần vô cùng quan trọng trong việc rèn cho học sinh tính suy luận, tư duy độc lập, linh hoạt trong giao tiếp, ứng xử tốt trong các tình huống. Đặc biệt giúp các em vận dụng tốt vốn từ cách hiểu nghĩa các văn bản để học tốt hơn các môn học khác, giáo dục các em tính nhẫn lại và ý trí vươn lên trong cuộc sống.
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến:
- Áp dụng cho học sinh khối lớp 3.
- Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Năm học 2020 – 2021
3. Nội dung sáng kiến:
Việc dạy Tập làm văn ở Tiểu học góp phần rèn luyện cho học sinh kĩ năng sử dụng tiếng mẹ đẻ, tạo điều kiện cho các em giao tiếp trong cuộc sống hằng ngày và vận dụng học tốt các môn học khác. Tiếng Việt cung cấp cho các em một hệ thống các kiến thức, rèn các kĩ năng một cách linh hoạt, thực tế và có hệ thống hơn trong mọi hoạt động.
-Trong khuôn khổ một đề tài tôi xin trình bày kĩ về việc Rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 3 qua tiết “Tập làm văn miệng” bằng những biện pháp cùng phương pháp giúp học sinh nói đúng và nói hay hơn ở tất cả các thể loại văn bản mà các em được biết.
	- Qua tiến hành khảo sát thực tế thì tôi thấy: kĩ năng nói của học sinh không đồng đều, lời nói không rõ ràng, không mạch lạc, thiếu truyền cảm. Yêu cầu đặt ra là học sinh phải nói hay hơn những lớp trước, các em phải đọc nhiều, viết nhiều, cá em phải nói rõ ràng và truyền cảm hơn khi kể, khi tả hay khi kể chuyện, với các yêu cầu của bài học đưa ra, học sinh thường rụt rè, nhiều em nói ngọng nói không sát với nội dung bài hay nói với hình thức dập khuôn, thiếu sáng tạo trong quá trình giao tiếp, nội dung sơ sài ít sử dụng các nghệ thuật trong bài viết
 - Nhận thấy những khó khăn trên tôi đã đưa ra sáng kiến Rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 3 qua tiết “Tập làm văn miệng”. Sáng kiến đã đưa ra các giải pháp và các bước thực hiện giải pháp, một số phương pháp nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh qua từng bài dạy cụ thể. Học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức một cách phù hợp theo từng đối tượng. Dạy theo phương pháp mới đạt hiệu quả, chất lượng. Học sinh tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên, tích cực, hiệu quả, vận dụng thực hành tốt.
4. Giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến:
Rèn kĩ năng nói cho học sinh là giúp học sinh chủ động hơn trong các tình huống học tập cũng như trong cuộc sống. Từ việc nói tốt sẽ hình thành ở các em cách làm tốt. Xử lí tốt và có lối giao tiếp thân thiện trong tham gia các hoạt động. Khi vận dụng các giải pháp trên vào dạy Tập làm văn ở lớp tôi chủ nhiệm, giáo viên cảm thấy giờ học không trầm như trước mà học sinh chú ý học hơn nhiều, qua thực hành giao tiếp cho thấy khả năng hoạt động học tập của học sinh rất tích cực, hiệu quả. Học sinh mạnh dạn tự tin hơn trong học tập, vốn từ của học sinh phong phú hơn, câu văn rõ ràng mạch lạc và giàu hình ảnh. Tiết học diễn ra nhẹ nhàng, gây hứng thú học tập cho học sinh. Học sinh nghe giáo viên kể chuyện trên lớp sau đó nhiều em đã kể lại trọn vẹn câu chuyện trước lớp.
5. Đề xuất, kiến nghị để thực hiện áp dụng:
5.1. Đối với nhà trường:
Nhà trường, tổ chuyên môn cần có những buổi sinh hoạt, thảo luận để sáng kiến này được hoàn thiện hơn và nhân rộng áp dụng rộng rãi.
5.2. Đối với phụ huynh:
- Quan tâm hơn nữa tới việc học tập của con em mình.
-Tăng cường phối hợp với Ban giám hiệu; giáo viên chủ nhiệm trong công tác học tập và rèn luyện của con em mình.
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến:
1.1. Yêu cầu về đổi mới phương pháp dạy học để đáp ứng được sự phát triển giáo dục trong giai đoạn hiện nay:
Để đáp ứng được yêu cầu về đổi mới phương pháp dạy học, người giáo viên cần phải tìm tòi những phương pháp và hình thức dạy học mới phù hợp với nội dung dạy học và đối tượng học sinh; phát huy sự chủ động sáng tạo gây hứng thú học tập cho học sinh đồng thời tạo điều kiện cho học sinh trải nghiệm phát huy vốn sống, tính sáng tạo. Mặt khác trong dạy Tập làm văn cần thiết phải có sự đổi mới phương pháp để học sinh hứng thú học tập, rèn được kĩ năng viết đoạn văn, bài văn chân thực, thể hiện đúng nhận thức và tình cảm của mình. đồng thời hình thành được thái độ tình cảm yêu cái hay cái đẹp; yêu quê hương đất nước và bồi dưỡng tâm hồn hướng tới cái chân – thiện – mĩ trong cuộc sống.
 1.2. Sự ra đời củaThông tư 22/2016/TT-BGDĐT ngày 22 tháng 9 năm 2016 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc Quy định đánh giá học sinh tiểu học:
Sau 4 năm thực hiện, Thông tư 30 đã được triển khai trên cả nước tuy nhiên Thông tư 30 cũng không tránh khỏi những hạn chế. Chính vì vậy, Bộ GD&ĐT chính thức cho ra đời Thông tư 22 trên cơ sở hoàn thiện Thông tư 30 với hi vọng sẽ tạo ra khí thế mới cho giáo viên và học sinh tiểu học. Ngày 22/9/2016, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ ký và gửi Thông tư 22/2016/TT-BGDĐT tới các Chánh Văn phòng, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Tiểu học, Cục trưởng Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục, Thủ trưởng các đơn vị có liên quan thuộc Bộ GD&ĐT, Giám đốc các sở giáo dục và đào tạo nhằm sửa đổi, bổ sung một số điều trong Thông tư số 30/2014/TT-BGDĐT ngày 28/8/2014 và Thông tư 22 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 06/11/2016. 
Chính vì vậy, giáo viên cần điều chỉnh, đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động dạy học, hoạt động trải nghiệm ngay trong quá trình và kết thúc mỗi giai đoạn dạy học, giáo dục; kịp thời phát hiện những cố gắng, tiến bộ của học sinh để động viên, khích lệ và phát hiện những khó khăn chưa thể tự vượt qua của học sinh để hướng dẫn, giúp đỡ; đưa ra nhận định đúng những ưu điểm nổi bật và những hạn chế của mỗi học sinh để có giải pháp kịp thời nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động học tập, rèn luyện của học sinh; góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục tiểu học; giúp học sinh có khả năng tự đánh giá, tham gia đánh giá; tự học, tự điều chỉnh cách học; giao tiếp, hợp tác; có hứng thú học tập và rèn luyện để tiến bộ. Đặc biệt là giáo viên cần quan tâm hơn đến sự hình thành phát triển các năng lực, phẩm chất cho học sinh. Đây là lí do tôi nảy sinh sáng kiến này.
2- Cơ sở lý luận của vấn đề:
	 Giáo dục Tiểu học là bậc học nền tảng. Mục tiêu của giáo dục Tiểu học đặc biệt nhấn mạnh đến việc hình thành và phát triển cho học sinh những tri thức và kĩ năng ứng xử tốt hơn trong cuộc sống hằng ngày.
Trong các môn học thì Tiếng Việt là môn học có vai trò đặc biệt quan trọng, Giúp học sinh phát triển nhân cách toàn diện. Trong đó môn Tập làm văn là một phân môn khó trong chương trình. Môn học này rèn cho các em đầy đủ bốn kĩ năng: Nghe, nói, đọc, viết qua nội dung các bài học cụ thể. 
Chắc ai cũng biết con người tồn tại không thể thiếu giao tiếp. Điều đó cho thấy giao tiếp có vai trò then chốt giải quyết tất cả các vấn đề trong học tập cũng như cuộc sống hằng ngày. Rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh tiểu học nhằm giúp các em có năng lực dùng Tiếng Việt để học tập, giao tiếp bằng lời nói trong môi trường hoạt động ở trường cũng như hoạt động ngoài xã hội. Đây là một trong những mục tiêu quan trọng của chương trình Giáo dục phổ thông 2018. Để thực hiện tốt mục tiêu này mỗi phân môn của Tiếng việt có nhiệm vụ hình thành và phát triển cho học sinh kĩ năng sử dụng Tiếng Việt trên phương diện lời nói. Nhiệm vụ này được tập trung ở phân môn Tập làm văn. Bởi lẽ phân môn Tập làm văn tiếp nối một cách tự nhiên các bài học khác nhau của môn Tiếng Việt từ: Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập viết. Nhằm giúp học sinh có năng lực sản sinh ngôn ngữ nói và hình thành các văn bản viết. Đồng thời rèn luyện các em kĩ năng: Nghe, nói, đọc, viết. Chương trình Tập làm văn lớp 3 đã đẩy mạnh phát triển kĩ năng nói thông qua hệ thống bài tập, chủ yếu là dạng bài: nghe và kể lại câu chuyện; thảo luận nhóm, tổ chức cuộc họp... Vậy luyện nói cho học sinh thế nào để hiệu quả? Làm thế nào để định hướng, hướng dẫn học sinh tự mình khám phá ra chân lí. tự mình tìm ra kiến thức. Đó là một câu hỏi khó. Chính lí do đó tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài “ Rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 3 qua tiết Tập làm văn miệng”, để hiểu rõ hơn về chương trình Tập làm văn lớp 3, đồng thời tìm ra một số biện pháp tối ưu nhất để rèn kĩ năng nói cho học sinh nhằm phục vụ cho quá trình giảng dạy phân môn Tập làm văn trong nhà trường Tiểu học hiệu quả hơn. 
3. Thực trạng vấn đề:
Qua dự giờ thăm lớp, đàm thoại, trao đổi kế hoạch dạy học của giáo viên khối Ba, tôi nhận thấy: Khi dạy các tiết tập làm văn, giáo viên luôn chú ý rèn kỹ năng đọc kỹ đề, nhận định và tìm hiểu yêu cầu đề ra, kỹ năng dùng từ đặt câu, kỹ năng diễn đạt.. cho học sinh. Song việc giải nghĩa từ và mở rộng vốn từ cho học sinh chưa thật hiệu quả đôi lúc còn lúng túng. Giáo viên đã bám sát mục tiêu, cách tiến hành các hoạt động dạy học một cách linh hoạt nhưng chưa sáng tạo trong quá trình mở rộng vốn từ, cách dùng từ cho học sinh ở phân môn tập làm văn. Vốn từ của các em còn nghèo, học sinh còn rụt rè, chưa mạnh dạn trình bày suy nghĩ của mình trước lớp và trước các hoạt động ngoại khóa, hoạt động trải nghiệm thực tiễn. Tôi nhận thấy nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do:
3.1. Về phía giáo viên:
Giáo viên chuẩn bị cho việc khai thác từ ở các tiết tập làm văn chưa thật được chú ý, chuẩn bị đồ dùng dạy học chưa phong phú, vận dụng các phương pháp dạy học không linh hoạt, không phù hợp, giáo viên chưa tập trung rèn kĩ năng nói cho học sinh qua các tiết tập làm văn miệng, chưa đầu tư nhiều thời gian cho học sinh, Giáo viên chưa lồng ghép giáo dục kĩ năng sống và giáo dục môi trường vào phân môn tập làm văn hoặc có lồng ghép thì còn quá sơ sài, đơn giản. Nhiều giáo viên còn ngại khi cho các em tham gia hoạt động ngoại khóa, hoạt động trải nghiệm để nâng cao vốn từ và kĩ năng giao tiếp của các em. 
Giáo viên vẫn chủ đạo đánh giá kết quả học của học sinh mà quên đi việc học sinh tự đánh giá lẫn nhau. Sách giáo khoa hiện hành đã (chú ý) hình thành và phát triển kỹ năng giao tiếp cho học sinh ở bậc cao hơn: Không phải là các nghi thức lời nói thông thường như chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi, mà là các hoạt động có tính chất giao tiếp như viết thư, làm đơn, khai giấy tờ, hội họp, giới thiệu hoạt động, viết quảng cáo, làm báo cáonhư với chương trình lớp 3. Tuy nhiên những đề bài này khó đối với học sinh lớp 3, chưa gần gũi với các em nên lời lẽ của các em sẽ thiếu sinh động, khô cứng, dập khuôn thiếu đi sự truyền cảm trong quá trình nói.
3.2. Về phía học sinh:
Vốn từ của các em còn quá ít, còn ỷ lại vào việc giáo viên hướng dẫn, làm mẫu. Một số học sinh còn rụt rè, chưa mạnh dạn bộc lộ suy nghĩ của mình trước bạn bè, các em chưa tự giác tích cực trong việc trao đổi nhóm cũng như ở các hoạt động học tập. Nhiều em không chú ý tập trung, còn nói chuyện riêng trong giờ, nhiều lúc lớp dẫn đến tình trạng trầm quá mức.
 Học sinh lớp 3, ngoài những đặc điểm chung còn có những hạn chế về đặc điểm tâm lý nên điều kiện tiếp xúc xã hội của các em còn hạn chế. Các em còn rụt rè và chưa tự tin. Chính vì vậy mà trong giờ học các em ít phát biểu, nhất là trong giờ Tập làm văn nói, các em rất ngại nói khi được các thầy cô giáo gọi đứng lên trình bày bài của mình. Một số em tuy có mạnh dạn hơn song khi đứng lên nói (trong tiết Tập làm văn miệng) các em không dám bộc lộ ngữ điệu, lời nói phù hợp với văn cảnh, chủ yếu các em như đọc thuộc bài sau khi đã có sự chuẩn bị trước. Một vài em khác khi được cô giáo (thầygiáo) gọi đứng lên nhận xét bài của bạn thì các em cũng rụt rè ít phát biểu ý kiến của mình. Chính vì vậy mà giờ Tập làm văn miệng thường diễn ra một cách nặng nề, buồn tẻ, các bài viết văn của học sinh thường mắc nhiều lỗi sai. Từ những đặc điểm tâm lý đó của học sinh, giáo viên dạy lớp 3 nói riêng và giáo viên dạy Tiểu học nói chung cần phải thay đổi phương pháp dạy học, lối tư duy cho bấy lâu nay nhằm rèn kỹ năng nói ở tất cả các môn học nói chung và đối môn với Tập làm văn nói riêng. Nhất là tiết Tập làm văn miệng rèn cho các em kỹ năng nói rõ ràng, mạch lạc, góp phần thực hiện tốt mục tiêu mà Ngành giáo dục đã đề ra.
3.3. Về phía cha mẹ học sinh:
	Nhiều phụ huynh chưa thật có nhiều thời gian quan tâm tới các em. Nhiều phụ huynh chưa đầu tư để các em được tham gia trải nghiệm, ngoại khóa, sân khấu hóa. Một số hoạt động giao lưu phụ huynh còn ỷ lại cho giáo viên mà quên đi việc cần phối kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội để giáo dục các em hiệu quả nhất.
3.4. Tiến hành khảo sát trước khi áp dụng sáng kiến:
Nhiều năm qua, khi được phân công giảng dạy lớp 5, tôi đều khảo sát chất lượng làm văn của học sinh. Năm học này cũng vậy, ngay từ đầu năm học, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng của hai lớp với đề bài: “Em hãy kể về gia đình em”. Kết quả thu được như sau:
Lớp
Sĩ số
Đánh giá
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
SL
%
SL
%
SL
%
3A
(Lớp đối chứng)
27
6
22
16
59
5
19
3B
( Lớp thực nghiệm)
27
5
19
17
62
5
19
Nhìn vào kết quả trên tôi thấy số học sinh hoàn thành tốt của lớp tôi thấp hơn so với lớp 3A, số học sinh chưa hoàn thành cao.
Trăn trở với kết quả trên và xuất phát từ yêu cầu thực tế giảng dạy, tôi thấy bản thân cần phải trau dồi kiến thức chuyên môn để phát triển năng lực của mình nên tôi đã chọn đề tài nghiên cứu này, giúp các em học tốt kiểu bài rèn kĩ năng nói như miêu tả, kể chuyện, diễn kịch và làm nền móng cho những kiểu bài văn tiếp sau này.
4. Các giải pháp thực hiện:
	4.1. Giải pháp chung:
	4.1.1. Trang bị kiến thức cho học sinh luôn chú trọng việc lồng ghép kiến thức giữa các phân môn Tiếng Việt:
Phân môn Tập Làm Văn lớp 3 rèn luyện cho học sinh các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết phục vụ cho việc học tập và giao tiếp. Học sinh biết dùng lời nói phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp trong học tập cũng như trong sinh hoạt hàng ngày ở gia đình, trong sinh hoạt tập thể và các hoạt động của lớp và ngoài xã hội, nghe hiểu được nội dung lời nói và có ý kiến thảo luận trong các buổi sinh hoạt, nghe hiểu và kể lại được nội dung trong các mẩu chuyện ngắn, biết nhận xét về các nhân vật trong câu chuyện. Biết viết đơn, viết tờ khai theo mẫu, viết một bức thư ngắn để báo tin tức, để hỏi thăm người thân hoặc kể lại một việc gì đã làm, biết kể lại một bức tranh đã xem, một văn bản đã đọc.
Với thể loại nói – viết trong phân môn Tập làm văn lớp 3, học sinh được rèn luyện kĩ năng nói dựa trên những gợi ý ở sách giáo khoa và viết một đoạn văn ngắn khoảng 5 đến 6 câu với các chủ đề: nói về quê hương, gia đình, người lao động, kể vể lễ hội, trận thi đấu thể thao, bảo vệ môi trường
 Do khả năng tư duy của học sinh còn hạn chế, óc quan sát, trí tưởng tượng không phong phú lại chưa chịu khó rèn luyện, nên đa số các em chỉ biết trình bày đoạn văn một cách hạn hẹp theo nội dung đã gợi ý. Từ đó bài văn nói – viết trở lên nghèo nàn về ý, gò ép, thiếu sự hồn nhiên. Ví dụ “Kể lại việc em đã làm để bảo vệ môi trường”, các em chỉ kể “ trên đường đi học, em thấy một cây xanh còn non bị ngã, em đỡ cho cây đứng dậy. Trưa tan học về thấy cây xanh tốt, em rất vui mừng vì đã bảo vệ môi trường”. Bên cạnh đó, đôi lúc các em còn trình bày lệch lạc, thiếu chính xác do ít kiến thức về vốn sống. 
Việc sử dụng và mở rộng vốn từ còn nhiều hạn chế, các em chưa chú ý cách sử dụng từ hoặc trau chuốt thế nào cho từ đó hay hơn trong câu văn. Có một số từ do được nghe và nói trong sinh hoạt hằng ngày thành quen thuộc, các em vẫn vô tư sử dụng trong bài văn của mình. 
Như vậy, để khắc phục những hạn chế trên, giáo viên cần hiểu rõ tính tích hợp kiến thức giữa các phân môn Tiếng Việt để từ đó giúp các em trang bị vốn kiến thức cơ bản cần thiết cho mỗi tiết học. Khi dạy các phân môn: Tập đọc, Chính tả, Tập viết, Luyện từ và câu có nội dung phù hợp tiết Tập làm văn sắp học; giáo viên cần dặn dò hướng dẫn học sinh quan sát tìm hiểu kĩ đối tượng cần nói đến và ghi chép cụ thể hình ảnh, hoạt động ấy vào sổ tay; với những sự việc hoặc hoạt động các em không được chứng kiến hoặc tham gia, giáo viên khuyến khích các em quan sát qua tranh ảnh, sách báo, trên tivi,hoặc hỏi những người thân hay trao đổi với bạn bè. Khi được trang bị những kiến thức cơ bản như thế, học sinh sẽ có những ý tưởng độc lập từ đó các em có thể trình bày được bài văn chân thực, sinh động và sáng tạo. Trong việc trang bị kiến thức cho học sinh, giáo viên không nên áp đặt các em vào một khuôn mẫu nhất định như chỉ định học sinh phải quan sát một bức tranh, một sự vật, con người hay một công việc cụ thể như thế sẽ hạn chế năng lực sáng tạo của các em. Vì vậy, với bất cứ một đề tài nào của một tiết Tập làm văn, giáo viên cần cho học sinh liên hệ mở rộng để các em phát huy được năng lực sáng tạo trong bài văn của mình.
	4.1.2. Tìm hiểu nội dung đề bài:
	Ở lớp 3 các em chưa học cách làm một bài văn với bố cục hoàn chỉnh 3 phần mà các em chỉ học cách làm một đoạn văn, thông qua quá trình rèn luyện ở 5 kỹ năng. Phân tích đề bài, tìm ý và lập dàn ý, làm văn miệng (ở lớp), văn viết 
( ở lớp), kiểm tra, đánh giá và trả bài.
	Phân tích đề:
Đây là bước quan trọng, định hướng cho các em làm bài. Với bất kỳ một bài tập làm văn nào thì khâu đầu tiên giáo viên và học sinh cần thực hiện đó là phân tích đề (tìm hiểu đề). Khâu này gồm các bước: Đọc đề bài, xác định từ ngữ quan trọng, xác định quan hệ giữa các vấn đề về ngữ pháp và lôgic, xác định nội dung trọng tâm của đề, xác định kiểu bài và giới hạn khác chính là giáo viên cần hướng dẫn học sinh trả lời được những câu hỏi sau:
- Đề bài yêu cầu chúng ta thuộc thể loại văn nào?
- Đề bài yêu cầu gì?
- Phạm vi đề bài đến đâu ?
- Trọng tâm bài ở chỗ nào?
Giáo viên nên cho học sinh phân tích đề trong thể so sánh sự giống, khác nhau giữa đề bài mới và đề bãi cũ đã học. Học sinh tự tìm hiểu phát hiện ra sự giống nhau, khác nhau đó và trả lời được những câu hỏi nêu sau khi so sánh.
Ví dụ: Kể hoặc tả ngắn về người thân, gia đình (về em bé, ông em hoặc bà em) ta thấy điểm giống nhau. Để tả người nhưng điểm khác nhau ở đây là lứa tuổi (hoặc cùng tả em bé nhưng đặc điểm của em bé gái sẽ khác em bé trai...) hình dáng, tính tình, hoạt động... khác nhau.
Như vậy nếu cùng thể loại ta sẽ thấy điểm khác nhau về nội dung, phạm vi mà đề tài yêu cầu.
	Nắm vững hệ thống câu hỏi gợi ý:
Sách giáo khoa lớp 3, bài Tập làm văn nói – viết thường có câu hỏi gợi ý, các câu hỏi này sắp xếp hợp lí như một dàn bài của một bài Tập làm văn; học sinh dựa vào gợi ý để luyện nói, sau đó viết thành một đoạn văn ngắn. Giáo viên cần cho học sinh đọc toàn bộ các câu gợi ý để hiểu rõ và nắm vững nội dung từng câu; từ đó giúp các em trình bày đoạn văn rõ ràng, mạch lạc đủ ý, đúng từ, đúng ngữ pháp. Giúp học sinh nắm vững nội dung từng câu hỏi gợi ý sẽ hạn chế được việc trình bày ý trùng lặp, chồng chéo, không có sự liên kết giữa các ý với nhau trong đoạn văn.
	Tìm hiểu các câu gợi ý:
Trước khi học sinh thực hành bài tập luyện nói, giáo viên cần giúp các em hiểu nghĩa của các từ ngữ có trong câu hỏi để học sinh hiểu và trình bày đúng yêu cầu, các từ ngữ này có thể là các từ khó hoặc từ địa phương. Nếu là từ địa phương, giáo viên có thể cho học sinh sử dụng từ địa phương mình với cùng ý nghĩa để học sinh làm bài dễ dàng hơn. 
	Chia thành nhiều câu gợi ý nhỏ:
Trong các câu gợi ý có một số câu dài hoặc ngắn gọn khiến học sinh lúng túng khi diễn đạt ý, do đó ý không trọn vẹn, bài văn thiếu sinh động sáng tạo. Giáo viên cần chia thành nhiều câu gợi ý nhỏ để giúp các em có những ý tưởng phong phú, hồn nhiên. Việc chia thành nhiều câu gợi ý nhỏ sẽ có nhiều học sinh được rèn kĩ năng nói, giúp các em có nhiều thông tin hơn từ đó các em thêm tự tin và giáo viên dễ dàng sửa chữa sai sót cho học sinh. 
Như vậy qua hệ thống câu hỏi, giúp học sinh bày tỏ được thái độ, tình cảm, ý kiến nhận xét đánh giá của mình về vấn đề nêu ra trong bài học. Song song với quá trình đó giáo viên cần hỏi ý kiến nhận xét của học sinh về câu trả lời của bạn để học sinh rút ra được những câu trả lời đúng và có cách ứng xử hay.Từ đó giúp học sinh mở rộng vốn từ, rèn lối diễn đạt mạch lạc, lôgíc, câu văn có hình ảnh có cảm xúc. Trên cơ sở đó bài luyện nói của các em sẽ trôi chảy, sinh động, giàu cảm xúc đồng thời hình thành cho các em cách ứng xử linh hoạt trong cuộc sống.
	4.1.3. Hướng dẫn tìm ý:
	 Sau khi phân tích đề, học sinh phải tìm tư liệu làm bài (tìm ý) mỗi kiểu bài có một cách tìm ý riêng. Do đặc điểm tâm lí lứa tuổi nên đa số bài văn của học sinh lớp 3 có ý tưởng chưa phong phú, sáng tạo, các em thường trình bày hạn hẹp trong khuôn khổ nhất định. Giáo viên cần giúp các em tìm ý để thực hành một bài văn nói – viết hoàn chỉnh về nội dung với những ý tuởng trong sáng giàu hình ảnh và ngây thơ chân thật. Để thực hiện được điều đó, giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh một cách chặt chẽ từ sự liên tưởng về các sự vật, các hoạt động. Từ đó học sinh dễ dàng tìm ý và diễn đạt bài văn rõ ràng, mạch lạc hơn.Trong một tiết Tập làm văn với một đề tài nào đó, học sinh có thể quên một số hình ảnh, sự việcmà các em đã quan sát hoặc tìm hiểu qua thực tế. Giáo viên khơi gợi cho học sinh nhớ lại bằng những câu hỏi nhỏ có liên quan đến yêu cầu bài tập, phù hợp thực tế và trình độ học sinh để các em dễ dàng diễn đạt. Nếu trong một bài Tập làm văn, học sinh chỉ biết diễn đạt nội dung bằng những gì đã quan sát; hoặc thực hành một cách chính xác theo các gợi ý; bài làm như thế tuy đủ ý nhưng không có sức hấp dẫn, lôi cuốn người đọc, người nghe. Vì vậy, với từng đề bài giáo viên nên có những câu hỏi gợi ý, khuyến khích học sinh liên tưởng, tưởng tượng thêm những chi tiết một cách tự nhiên, chân thật và hợp lí qua việc sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hoá, để từ đó học sinh biết trình bày bài văn giàu hình ảnh, sinh động, sáng tạo. 
Sau khi phân tích đề, học sinh phải tìm tư liệu làm bài (tìm ý) mỗi kiểu bài có một cách tìm ý riêng.
Với kiểu bài kể hoặc tả, quan sát là cơ sở để tìm ý. Nó sử dụng rộng rãi trong quá trình dạy ở Tiểu học. Giáo viên chỉ là người hướng dẫn học sinh quan sát và để các em quan sát độc lập, sáng tạo. Mỗi em tiếp cận đối tượng ở một góc nhìn riêng làm cho bài thêm phong phú.
Giáo viên nên định rõ mục đích yêu cầu, nhiệm vụ quan sát và hướng dẫn học sinh quan sát. Học sinh ghi chép lại những điều kiện quan sát được trên cơ sở đó tự rút ra kết luận, cuối cùng trình bày các kết quả do mình quan sát được.
Quan sát thường theo trình tự sau:
 Cho học sinh tiếp cận đối tượng cùng một lúc ở nhiều góc độ khác nhau.
Từ những góc độ khác nhau đó ta tri giác bằng mắt nhìn, tai nghe, mũi ngửi... Trong thực tế, học sinh thường chỉ dùng mắt để quan sát, ít dùng các giác quan khác. Giáo viên cần đặt câu hỏi để yêu cầu học sinh tập sử dụng tối đa các giác quan của mình để thu nhập những nhận xét khác nhau về đối tượng quan sát giữa các em để làm bài văn sinh động hơn.
Ví dụ: Kể về một người hàng xóm mà em quý mến ... ta nhờ mắt và tay ta nhận thấy người đó có nước da trắng hồng, dáng cao thanh mảnh... hoặc tả đôi tay bà: xù xì, ram ráp với những nếp nhăn và sạm nắng.
 Học sinh phải biết sử dụng trình tự không gian, thời gian quá trình phát triển dấu ấn thời gian trên là hình dáng hoạt động của con người.
 Phải có một quá trình trừu tượng hoá với những liên tưởng, tưởng tượng, so sánh để nêu bật các đặc điểm của đối tượng. Đối với các kiểu bài: nghe - kể, viết thư, ghi chép sổ tay, viết thư, viết đơn theo mẫu... khi học sinh tìm ý, giáo viên cần đặt câu hỏi để học sinh hồi tưởng lại những diễn biến chung và những chi tiết đã biết về câu chuyện kể, sự việc hoặc để học sinh tưởng tượng ra những chi tiết mà mình muốn kể hoặc chọn lọc những tin tức cần thông báo.
 Cần xây dựng một hệ thống từ vựng nhất định, các em phải chọn ra những từ phù hợp với bài văn của mình. Ví dụ: khi tả hình dáng của người cần có những từ: tầm thước, không cao lắm, thanh thanh... đúng với dáng hình của từng người.
	4.1. 4. Hướng dẫn diễn đạt:
 Như đã nói, do tâm lí lứa tuổi nên bài văn thực hành của học sinh lớp 3 tuy có ý tưởng, nhưng vẫn còn nhiều sai sót về diễn đạt như: dùng từ chưa chính xác, ý trùng lặp, các ý trong đoạn văn chưa liên kết nhau nên trình bày chưa rõ ràng mạch lạc. Vì vậy, khi học sinh trình bày, giáo viên phải hết sức chú ý lắng nghe, ghi nhận những ý tưởng hay, ý có sáng tạo của học sinh để khen ngợi; đồng thời phát hiện những sai sót để sửa chữa. Giáo viên cần đặt ra tiêu chí nhận xét thật cụ thể để học sinh làm cơ sở lắng nghe bạn trình bày; phát hiện những từ, ý, câu hay của bạn để học hỏi và những hạn chế của bạn để góp ý, sửa sai.
4.1.5. Thiết kế các bài tập sửa lỗi:
Để làm tốt một số bài văn nói (hay viết) ngoài kỹ năng ngôn ngữ, học sinh cần được rèn luyện thêm kỹ năng chữa bài, rút kinh nghiệm, nhằm đạt kết quả ngày càng cao hơn. Các em tập nhận xét bạn trong giờ Tập làm văn miệng, tự rà soát bài của mình và chữa lỗi... Tất cả đều giúp học sinh tập luyện thói quen "tự điều chỉnh" lỗi trong giờ Tập làm văn miệng và tiết trả bài.
Những lỗi mà học sinh thường mắc khi làm bài tập làm văn là:
 Về nội dung: Có những điểm lạc đề, xa đề, những điểm không chính xác, những hiểu biết lệch lạc trong cách kể, miêu tả, trong các chi tiết hoặc nội dung của câu chuyện sự việc...
 Về kỹ năng: Học sinh thường mắc lỗi cả hai loại kỹ năng xây dựng văn bản và dùng từ đặt câu, lỗi chính tả.
 Lỗi về dàn ý: Thiếu cân đối (có ý quá dài, có ý quá ngắn), không làm nổi bật trọng tâm của bài, dàn ý không chặt chẽ, nhất quán, trình tự lộn xộn.
 Lỗi về dùng từ, đặt câu và chính tả (các lỗi về hình thức).
+ Lỗi về dùng từ: Dùng từ sai nghĩa hoặc dùng không đúng với sức thái biểu cảm của câu văn...
+ Lỗi về câu: Câu thiếu thành phần chính (chủ ngữ hay vị ngữ hoặc câu thiếu cả chủ ngữ và vị ngữ) nêu ý chưa trọn vẹn, câu rườm rà lủng củng.
Với tiết Tập làm văn miệng, khi chữa những lỗi về hình thức cũng cần chú ý tới phong cách khẩu ngữ của Tập làm văn nói, không đòi hỏi khắt khe như với bài viết nhưng cần đạt yêu cầu tối thiểu về nội dung và hình thức. 
Ngoài ra, trong bài văn nói còn có những lỗi phát âm cần tập trung chữa các lỗi có tính chất phổ biến ở địa phương nơi trường đóng, đồng thời chữa các lỗi có số ít học sinh mắc phải nhưng có tính trầm trọng.
Bên cạnh những lỗi trên cũng cần khắc phục những điểm sau: Đoạn văn khô khan, thiếu hình ảnh, ít cảm xúc, công thức máy móc do thiếu tưởng tượng, liên tưởng hồi ức... 
Muốn cho giờ học đạt kết quả cao hơn thì bên cạnh nêu những lỗi về dàn ý, giáo viên cần có dự kiến phân loại những lỗi thành từng nhóm tiêu biểu và thiết kế những bài tập sửa lỗi cho từng nhóm.
Bên cạnh giờ Tập làm văn nói, giờ trả bài cũng có vai trò quan trọng trong việc rèn kỹ năng nói của học sinh cũng như chất lượng của bài viết. Nhưng trong thực tế, giờ trả bài chưa được giáo viên coi trọng. Giáo viên cần quan tâm hơn đến giờ trả bài, chuẩn bị công phu trong việc thống kê lỗi để tìm lỗi phổ biến của học sinh, tìm dẫn chứng minh hoạ, nhận xét... Qua đó, học sinh có ý thức tự sửa, đỡ rụt rè giúp các em mạnh dạn hơn trong giờ làm miệng và nâng cao được chất lượng bài văn của mình.
* Giáo viên cần hình thành và phát triển cho học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt ( nghe, nói, đọc, viết). Thông qua việc dạy Tiếng Việt để rèn luyện các thao tác tư duy lô gic. Cung cấp cho học sinh những kiến thức ban đầu về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hóa... Thông qua phân môn tập làm văn giúp học sinh biết dùng lời nói phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp trong sinh hoạt gia đình, trong tập thể. biết nghe hiểu nội dung lời nói. Muốn đạt được yêu cầu trên, khi chuẩn bị bài dạy, giáo viên cần xác định rõ mục đích yêu cầu của bài để hướng bài dạy đi đúng trọng tâm. Lựa chọn các phương pháp và hình thức dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh trong lớp mình.
Ví dụ: Hãy kể về gia đình em (trang 28): Học sinh phải xác định các thành phần mà mình phải kể có trong gia đình. Phải nắm được đặc điểm, tính cách và công việc của người mình kể. Học sinh biết yêu gia đình và bạn bè trong lớp
*Trong quá trình lên lớp, giáo viên cần phải xác định trước nội dung cần trình bày. Bởi lẽ, muốn học sinh nói tốt, giáo viên phải thật linh hoạt, phải đặt ra hệ thông câu hỏi hay tình huống có vấn đề để học sinh tham gia vào các hoạt động và dự kiến cho học sinh nghe gì, nói gì? Điều gì nói trước, điều gì nói sau. Tất cả phải được trình bày thông qua sự hướng dẫn của giáo viên. Giáo viên cần hình dung trước các tình huống có thể xảy ra để có cách giải quyết thích hợp. Từ đó hình thành tính chuẩn bị chu đáo cho học sinh khi tham gia vào các hoạt động.
Ví dụ: Tổ chức cuộc họp (

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_ren_ki_nang_noi_cho_hoc_sinh_lop_3_qua.doc