Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn chữ viết đúng-viết đẹp cho học sinh lớp 2

1, Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến 

            Nghe, nói, đọc, viết là các kĩ năng cần đạt của học sinh tiểu học. Đây cũng là nền tảng để HS có thể học được các môn học khác như: Toán, Đạo đức, Tự nhiên và xã hội,… Theo xu hướng phát triển giáo dục hiện nay, không những yêu cầu HS viết thạo mà phải tiến đến viết đúng và đẹp. Đó là HS phải có kĩ năng “Giữ vở sạch – viết chữ đẹp”. Mục đích của việc rèn chữ viết cho học sinh lớp 2” nhằm:  Rèn cho HS viết chữ rõ ràng, đúng nét, đẹp, trình bày cân đối; có ý thức giữ gìn tập vở cẩn thận, biết cầm bút và ngồi viết đúng tư thế để hạn chế bệnh học đường. Tạo cho học sinh thói quen trau dồi kĩ năng viết và trình bày bài. Từ đó giúp các em hình thành và phát triển những phẩm chất tốt như: tính cẩn thận, tinh thần kỉ luật, lòng kiên trì, khiếu thẩm mĩ, óc sáng tạo, biết quý trọng và giữ gìn tiếng nói – chữ viết của dân tộc. 

     Qua thực tế cho thấy kết quả về chất lượng chữ viết ở trường tôi đã có nhiều chuyển biến song nhiều em viết vẫn chưa đẹp.  Chất lượng về chữ viết chưa ổn định. Với kinh nghiệm của bản thân và kết quả đã đạt được nhiều năm tôi đó nghiên cứu, tìm tòi đưa ra sáng kiến “ Một số biện pháp rèn  chữ viết đúng- viết đẹp cho học sinh lớp 2” 

doc 28 trang Huy Khiêm 01/10/2023 6880
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn chữ viết đúng-viết đẹp cho học sinh lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn chữ viết đúng-viết đẹp cho học sinh lớp 2

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn chữ viết đúng-viết đẹp cho học sinh lớp 2
UBND HUYỆN BÌNH GIANG
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN
MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN CHỮ VIẾT CHO HỌC SINH LỚP 2
 Bộ môn (lĩnh vực): Tiếng Việt
Năm học 2018 - 2019
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến
 “ Rèn chữ viết cho học sinh lớp 2 ”
 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn Tiếng việt
 3. Tác giả: 
 - Họ và tên: Trần Thị Châm
 - Ngày tháng năm sinh: 07/04/1975
 - Trình độ chuyên môn: Cao Đẳng 
 - Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên Trường Tiểu học Tân Việt
 - Điện thoại: 0372796302
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trường Tiểu học Tân Việt - xã Tân Việt- huyện Bình Giang- tỉnh Hải Dương
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu: Trường Tiểu học Tân Việt - Bình Giang- Hải Dương.
6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: GV và học sinh lớp 2.
7. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Năm học 2018- 2019
 TÁC GIẢ
 Trần Thị Châm 
XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
Tãm t¾t s¸ng kiÕn
1, Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến 
 Nghe, nói, đọc, viết là các kĩ năng cần đạt của học sinh tiểu học. Đây cũng là nền tảng để HS có thể học được các môn học khác như: Toán, Đạo đức, Tự nhiên và xã hội, Theo xu hướng phát triển giáo dục hiện nay, không những yêu cầu HS viết thạo mà phải tiến đến viết đúng và đẹp. Đó là HS phải có kĩ năng “Giữ vở sạch – viết chữ đẹp”. Mục đích của việc rèn chữ viết cho học sinh lớp 2” nhằm: Rèn cho HS viết chữ rõ ràng, đúng nét, đẹp, trình bày cân đối; có ý thức giữ gìn tập vở cẩn thận, biết cầm bút và ngồi viết đúng tư thế để hạn chế bệnh học đường. Tạo cho học sinh thói quen trau dồi kĩ năng viết và trình bày bài. Từ đó giúp các em hình thành và phát triển những phẩm chất tốt như: tính cẩn thận, tinh thần kỉ luật, lòng kiên trì, khiếu thẩm mĩ, óc sáng tạo, biết quý trọng và giữ gìn tiếng nói – chữ viết của dân tộc. 
 Qua thực tế cho thấy kết quả về chất lượng chữ viết ở trường tôi đã có nhiều chuyển biến song nhiều em viết vẫn chưa đẹp. Chất lượng về chữ viết chưa ổn định. Với kinh nghiệm của bản thân và kết quả đã đạt được nhiều năm tôi đó nghiên cứu, tìm tòi đưa ra sáng kiến “ Một số biện pháp rèn chữ viết đúng- viết đẹp cho học sinh lớp 2” 
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến
 - Để tìm ra cách dạy phù hợp với từng đối tượng học sinh lớp mình phụ trách năm học 2018-2019 này tôi vẫn tiếp tục đúc rút một số kinh nghiệm khi rèn chữ viết đúng viết đẹp cho học sinh lớp 2. Đặc biệt, tôi quan tâm và hướng dẫn tỉ mỉ hơn với những em viết yếu. 
 Sáng kiến này được áp dụng rộng rãi với giáo viên khối 2 và cho tất cả các giáo viên giảng dạy đều có thể áp dụng vào việc rèn luyện viết chữ đẹp cho học sinh lớp mình phụ trách.
 3. Nội dung sáng kiến
- Chúng ta biết rằng muốn viết đẹp thì trước tiên là phải viết đúng mẫu chữ, kích cỡ, độ cao, tốc độ viết đảm bảo. Trong sáng kiến kinh nghiệm này, tôi đã đi sâu vào các biện pháp đó là:
+ Tư thế ngồi viết, cách cầm bút 
+ Rèn nếp viết chữ rõ ràng sạch đẹp 
+ Củng cố các nét cơ bản
+ Luyện viết đúng kích thước và cỡ chữ
+ Luyện viết các chữ cái theo nhóm
+ Luyện viết liền mạch
+ Hướng dẫn viết dấu thanh
+ Kết hợp với các môn học khác
+ Một số bài tập luyện viết chữ đẹp
4. Kết quả đạt được của sáng kiến.
 Tôi đã triển khai sáng kiến này với giáo viên khối 2. Kết quả nhiều em chăm chỉ, có ý thức phấn đấu trong học tập, thích thi đua. Một số học sinh viết chữ xấu, vở bẩn nay đã tiến bộ rõ rệt; còn những học sinh đã đạt vở sạch chữ đẹp thì các em luôn luôn phát huy trong các môn học hằng ngày một cách rất tích cực. Kinh nghiệm này giúp giáo viên chịu khó học hỏi việc đổi mới phương pháp dạy học, thương yêu học sinh, coi trọng việc rèn chữ cho học sinh.
 5. Đề xuất, kiến nghị để thực hiện áp dụng sáng kiến.
 Rèn chữ viết là một quá trình lâu dài, đòi hỏi sự kiên trì bền bỉ vận dụng nhiều phương pháp để nâng cao chất lượng dạy và học: Cần tổ chức các chuyên đề phổ biến kinh nghiệm"Giữ vở sạch, viết chữ đẹp"để giáo viên có điều kiện trao đổi học tập kinh nghiệm nâng cao tay nghề.
M« t¶ s¸ng kiÕn
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến:
Trong giáo dục thì giáo dục Tiểu học là bậc học nền tảng đặt nền móng cho các cấp học trên. Bởi vậy: "Ngôi nhà tri thức có vững chắc, có đẹp, có sang trọng hay không là nhờ vào nền móng ấy". Bởi ở đây học sinh được học những kiến thức cơ bản đầu tiên thiết yếu. Học Tiếng Việt học sinh hiểu vận dụng tốt cái hay, cái đẹp của ngôn ngữ Tiếng Việt - Tiếng mẹ đẻ, học qua toán học, học sinh nắm vững được kỹ thuật tính toán, nắm chắc kiến thức cơ bản đầu tiên của khoa học tự nhiên... Nhưng một phần không thể thiếu được trong giáo dục Tiểu học mà các bậc học khác không có là vấn đề chữ viết, là chất lượng vở sạch chữ đẹp.
	Trong những năm học gần đây vấn đề :”Giữ vở sạch - Viết chữ đep”được đặc biệt quan tâm. Để thực hiện tốt những yêu cầu trên đòi hỏi cả cô và trò phải có sự nỗ lực phấn đấu không ngừng.
	Năm học này, tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm và giảng dạy lớp 2. Ngay từ đầu năm học, tôi nghĩ rằng muốn nâng cao được chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh thì không những người giáo viên phải truyền thụ đầy đủ những tri thức cho các em mà còn phải quan tâm, chú trọng đến việc rèn chữ viết đúng, viết đẹp, giữ vở sạch cho học sinh.
	Mặt khác, đối với bậc tiểu học, yêu cầu cơ bản tối thiểu đối với học sinh là đọc thông viết thạo. Chữ viết của học sinh còn liên quan đến tất cả các môn học khác như: Toán, Tiếng Việt, Đạo đức, Tự nhiên xã hội Do đó, nếu học sinh viết nhanh, đúng, đẹp thì việc học các môn này sẽ có nhiều thuận lợi.
	Ngay từ đầu năm học, qua theo dõi chữ viết của học sinh, tôi nhận thấy rằng chữ viết của các em đa số còn xấu vì viết ẩu, ngồi viết sai tư thế, cầm bút sai,... Với lý do trên, tôi đó mạnh dạn nghiên cứu tìm ra “Một số biện pháp rèn chữ viết cho học sinh lớp 2 ”.
2. Cơ sở lí luận của vấn đề:
 2.1. Là một giáo viên giảng dạy ở khối lớp 2, trong điều kiện công tác, tôi luôn tập trung nghiên cứu nhằm rèn luyện chữ viết cho học sinh lớp mình ngày càng đẹp hơn để góp phần vào việc nâng cao kết quả học tập của các em ngày càng tốt hơn.
	- Muốn học sinh viết đúng đẹp, giữ gìn sách vở cẩn thận, trước hết và chủ yếu có sự dạy dỗ công phu của các thầy cô theo phương pháp khoa học và kinh nghiệm đã được đúc kết cùng với sự kèm cặp thường xuyên, sâu sát của các bậc phụ huynh, sự nỗ lực kiên trì của mỗi học sinh.
	Trên thực tế, các chữ cái Tiếng Việt thoả mãn tương đối các điều kiện trên. Nhưng có những âm biểu thị bằng nhiều chữ cái do đó học sinh rất dễ nhầm lẫn, khó phân biệt.
	2.2. Nhà trường có đủ các phòng học cho học sinh học hai buổi trên ngày. Tuy nhiên một số phòng học chưa bảo đảm về tiêu chuẩn như: Ánh sáng trong phòng học, bàn ghế của học sinh, bảng lớp...
	- Ánh sáng trong phòng học chưa đảm bảo nhất là về mùa đông. Khi thời tiết lạnh các cửa đều phải đóng để tránh gió lùa vào lên phải sử dụng nguồn ánh sáng nhân tạo. 
 - Bàn ghế của học sinh tuy đầy đủ về số lượng, hình thức tương đối đẹp. Song một số bộ bàn ghế chưa phù hợp với học sinh vì trong lớp một số em bé hơn các bạn lên mỗi khi viết lại phải nhoài người hoặc phải đứng lên thì mới viết được cho nên ảnh hưởng đến chữ viết và tốc độ viết. Mặt khác, mặt bàn bằng phẳng không có độ nghiêng, dốc về phía học sinh nên khi viết các em không thấy thoải mái và tay khó di chuyển.
	- Bảng lớp: Các lớp được trang bị một bảng chống loá, sơn mầu xanh thẫm và được treo cân đối, hợp lý giúp học sinh quan sát dễ dàng. Nhưng bảng lại không có các dòng kẻ nên khi viết mẫu cho học sinh giáo viên còn gặp nhiều khó khăn như viết chậm, viết các nét không chuẩn. Nhiều giáo viên đã khắc phục bằng cách tự kẻ lấy các dòng kẻ cho nên các dòng kẻ không đều nhau và cũng chỉ trong thời gian ngắn các dòng kẻ đó lại mờ dần.
	3. Thực trạng của vấn đề:
	 - Năm học 2018 – 2019, tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 2E. Qua tìm hiểu tôi được biết học sinh của lớp tôi phần đa là con em gia đình làm buôn bán. Vì vậy, việc quan tâm đến chuyện học hành nói chung và việc giúp con em mình giữ vở sạch , viết chữ đẹp nói riêng còn rất hạn chế. Ngay từ đầu năm khi nhận lớp, tôi thấy học sinh lớp tôi viết chữ chưa đẹp, chữ viết của nhiều em còn chưa đúng cỡ chữ, sai nhiều lỗi, trình bày chưa khoa học, thừa nét, thiếu nét...
	3.1. Về phương pháp dạy học của giáo viên:
* Những ưu điểm:
	Giáo viên nhiệt tình công tác, chịu khó học hỏi việc đổi mới phương pháp dạy học, thương yêu học sinh, coi trọng việc rèn chữ cho học sinh.
* Những mặt còn tồn tại:
 - Do nhận thức của cả người dạy và người học, nhận thức của các bậc cha mẹ học sinh chưa thấy hết được vị trí, tầm quan trọng và sự tác động qua lại của các môn học, thường xem nhẹ việc dạy và học môn Tập viết; vì vậy, chưa tạo hứng thú khi dạy môn học này, điều đó dẫn đến học sinh cũng cẩu thả, tùy tiện và chưa coi tập viết là để rèn chữ, rèn nết, rèn những đức tính cần thiết trong việc hình thành nhân cách con người.
	- Trong giờ Tập viết, giáo viên thường dạy qua loa, chỉ yêu cầu học sinh giở vở Tập viết ra tự viết, không hướng dẫn cho học sinh về cách trình bày, cách viết đúng, chuẩn nét, không nhắc nhở cách cầm bút, đặt vởhọc sinh thường viết cho thật lẹ để làm việc khác hoặc chơi.
	- Một nguyên nhân nữa là do khối lượng kiến thức của lớp 2 so với lớp 1 nhiều hơn nên học sinh phải tăng tốc độ viết trong giờ học, giờ làm bài nên chữ viết thường không nắn nót, không viết đúng quy cách, sai kích cỡ, khoảng cách giữa các chữ không đều. Hiện tượng viết sai nét, sai cỡ chữ, hở nét, thừa nét, thiếu dấu hoặc đánh dấu không đúng vị trí diễn ra thường xuyên.
	- Bản thân giáo viên là tấm gương cho học sinh soi rọi nhưng nhiều giáo viên viết chữ vẫn còn xấu, chưa chuẩn, đánh giá nhận xét cho học sinh trong vở cũng chưa lưu ý đến chữ viết của mình, chưa nắm được hết cách trình bày từng loại văn bản, chưa quan tâm nhiều trong môn học này. 	
	- Những nguyên nhân trên đây khiến chữ viết của học sinh không chuẩn, ngày lại càng viết láu, viết xấu hơn.. 
 3.2. Về kết quả học tập của học sinh:
 * Những ưu điểm:
 - Ngoan, nhiều em chăm chỉ, có ý thức phấn đấu trong học tập, thích thi đua.
 * Những mặt còn tồn tại:
 - Chưa có thói quen giữ vở sạch, viết chữ đẹp.
 - Khi viết sai các em có thói quen xóa nhiều lần.
 - Tay cầm bút chưa đúng quy định.
 - Thiếu tính kiên trì, ham chơi, nhiều em còn cẩu thả, ý thức luyện chữ chưa cao.
 - Kỹ năng viết chưa thành thạo.
 - Chưa được sự quan tâm của gia đình. Bố mẹ mải lo làm ăn nên phó thác hết trách nhiệm cho giáo viên chủ nhiệm. Không thường xuyên kiểm tra, nhắc nhở việc học tập của các em, không quan tâm đến sách vở, đồ dùng học tập của các em. Nhiều khi đến lớp các em không có bút để viết do quên hay bút hết mực, hỏng ngòi,...đã ảnh hưởng đến việc viết chữ rất nhiều,... Nắm được những hạn chế, những sai sót của học sinh trong quá trình viết, từ đó tôi đặt ra kế hoạch sửa, rèn chữ cho học sinh.
 4. Các biện pháp rèn chữ viết cho học sinh.
4.1. Rèn tư thế ngồi viết, cách cầm bút, để vở.
	Khi ngồi viết, học sinh phải ngồi ngay ngắn, lưng thẳng, không tì ngực vào cạnh bàn, đầu hơi cúi, hai mắt cách mặt vở từ 23 cm đến 30 cm. Cánh tay phải cũng ở trên mặt bàn bên trái vở, bàn tay trái tì vào mép vở giữ vở không xê dịch khi viết. Cánh tay phải cũng ở trên mặt bàn. Với cách để tay như vậy, khi viết, bàn tay và cánh tay phải có thể dịch chuyển thuận lợi từ trái sang phải dễ dàng.
	Khi viết, học sinh cầm bút và điều khiển bút viết bằng ba ngón tay 
(ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa) của bàn tay phải. Đầu ngón tay trỏ đặt ở bên trái của đầu bút dịch chuyển linh hoạt. Ngoài ra động tác viết cần có sự phối hợp cử động của cổ tay, khuỷu tay và cánh tay.
	 Khi viết chữ, vở viết cần đặt so với mép bàn một góc khoảng 30 độ (nghiêng về bên phải). Sở dĩ phải đặt như vậy vì chiều thuận của vận động tay khi viết chữ Việt là vận động từ trái sang phải. Tôi luôn nhắc nhở học sinh mở vở, gấp vở nhẹ tay, khi viết không gấp đôi vở.
	4.2. Rèn nếp viết chữ rõ ràng, sạch đẹp:
 Chất lượng chữ viết của học sinh không chỉ phụ thuộc vào điều kiện chủ quan (năng lực cá nhân, sự luyện tập kiên trì, trình độ sư phạm của giáo viên) mà còn có sự tác động của các yếu tố khách quan (điều kiện, phương tiện phục vụ cho việc dạy và học tập viết). Do vậy muốn rèn cho học sinh thói quen viết chữ rõ ràng, sạch đẹp, giáo viên cần quan tâm hướng dẫn nhắc nhở các em thường xuyên về các mặt chủ yếu:
4.2.1. Chuẩn bị và sử dụng đồ dùng học tập:
- Để thực hành luyện viết đạt kết quả tốt, học sinh cần có ý thức chuẩn bị đồ dùng học tập thiết yếu: Bảng con, phấn trắng, khăn lau đúng quy định.
+ Bảng con có dòng kẻ (đồng dạng với dòng kẻ li trong vở tập viết).
+ Phấn viết có độ dài vừa phải, phấn không bụi càng tốt.
+ Mỗi em có một tờ giấy thấm, một giẻ để lau bút, trong mỗi vở đều có một tờ giấy kê tay đẻ vở không bị giây bẩn, không bị ướt mồ hôi khi viết .
+ Vở Tập viết có đủ 2 tập.
+ Bút nên cho học sinh sử dụng bút mực có nét thanh đậm. 
+ Hướng dẫn học sinh cách gọt bút chì, cách bơm mực ( không bơm quá đầy, chỉ bơm 1/2 sức chứa của bút )
4.2.2. Thực hiện đúng quy định khi viết chữ:
 Quá trình hình thành kỹ năng viết chữ nói chung thường trải qua hai giai đoạn chủ yếu:
- Giai đoạn nhận biết, hiểu biết về chữ viết (Xây dựng biểu tượng ).
- Giai đoạn điều khiển vận động: Giai đoạn này thường có hiện tượng “lan toả” dễ ảnh hưởng tới một số bộ phận khác trong cơ thể (Ví dụ: miệng méo, vai lệch, gù lưng, ). Nhận thức rõ điều đó, giáo viên phải chú ý nhắc nhở các em cần thực hiện đúng một số quy định khi viết chữ:
+ Tư thế ngồi viết: Giáo viên phải luôn hướng dẫn và sửa sai tư thế để học sinh ngồi viết thoải mái, không nghiêng vai, rụt cổ, cúi đầu sát vở.
+ Cách cầm bút.
+ Cách để vở xê dịch khi viết.
- Cách trình bày bài: Học sinh nhìn và viết theo đúng mẫu trong vở Tập viết lớp 2, viết theo yêu cầu giáo viên hướng dẫn, số chữ viết, số lần viết trên dòng kẻ và trên trang vở tập viết, tránh viết dở dang chữ ghi tiếng hoặc viết chòi ra mép vở không có dòng kẻ li. Khi viết sai chữ không không được tẩy xoá mà cần để cách ra một khoảng ngắn rồi viết lại.
4.3. Củng cố các nét cơ bản tạo nên chữ viết thường.
 Để viết đúng mẫu, đảm bảo không gây nhầm lẫn các chữ cái với nhau, học sinh phải nắm được hệ thống nét cấu tạo chữ cái La tinh nghi âm Tiếng Việt. Đây là cơ sở để viết nhanh, nâng cao tính thẩm mỹ của chữ viết.
4.3.1. Các nét thẳng:
	+ Thẳng đứng ( | ) : Nét có trong các chữ p, q...
	+ Nét ngang ( ) Nét có trong các chữ đ, t...
	+ Nét xiên: Xiên phải ( / ), xiên trái ( \ )
	+ Nét hất ( / ) : Nét có trong các chữ : i, u, ư...
 4.3.2. Các nét cong.
+ Nét cong kín ( hình bầu dục đứng O ) : Nét có trong các chữ o, ô, ơ, a,...
+ Nét cong hở: Cong phải ( ....), cong trái ( C )...Nét có trong các chữ x, c.
4.3.3. Các nét móc:	
+ Nét móc xuôi (móc trái): Nét cong trong các nét cong các chữ như: a, ă, i, u,...
+ Nét móc ngược (móc phải: Nét có trong các chữ: m, n, v.
+ Nét móc hai đầu có thắt ở gữa : Nét có trong chữ k.
4.3.4. Nét khuyết.
+ Nét khuyết trên: Nét có trong các chữ: y, g.
+ Nét khuyết dưới: Nét có trong các chữ: b, h, k, l.
4.3.5 Nét thắt : Nét có trong các chữ: b, r, s, v.
 Ngoài ra còn một số nét bổ sung: Nét chấm ( trong chữ i). Nét gãy (trong dấu phụ của chữ ă, â ), dấu hỏi ( ?), dẫu ngã ( ...)
4.4. Luyện viết đúng kích thước và cỡ chữ (đúng mẫu ).
 Kích thước và cỡ chữ được lấy dòng kẻ trên giấy làm đơn vị đo độ cao hoặc độ dài của một chữ (mỗi đơn vị đo độ cao tương ứng với khoảng cách giữa hai dòng kẻ).
 Kích thước của chữ viết thường được chia thành năm nhóm.
 + Nhóm chữ có độ cao một đơn vị: a, ă, â, c, e, ê, i, m, n, o, ô, ơ, ư, v, x.
 + Nhóm chữ có độ cao 1,25 đơn vị: r, s.
 + Nhón chữ có độ cao 1,5 đơn vị: t.
 + Nhóm chữ có độ cao 2 đơn vị: d, đ, p, q.
 + Nhóm chữ có độ cao 2,5 đơn vị: g, h, l, k, b, y.
 + Các chữ viết hoa có độ cao giống nhau cao 2,5 đơn vị, trừ chữ G, Y cao 4 đơn vị.
	Ví dụ: Quê hương tươi đẹp. 
4.5. Luyện viết các chữ cái theo nhóm:
4.5.1. Chữ cái viết thường. 
 + Nhóm chữ cái có cấu tạo từ nét cong là cơ bản. c, o, ô, ơ, e, ê, x.
 + Nhóm chữ cái có cấu tạo nét cong phối hợp với nét móc: a, ă, â, d, đ, q.
 + Nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét móc: i, u, ư, n, m, p.
 + Nhóm các chữ cái có chữ cơ bản lã nét khuyết: b, h, l, k, g, y.	
 + Nhóm chữ cái có nét móc phối hợp với nét cong : r, v, s,.
4.5.2. Chữ cái viết hoa:
	+ Nhóm chữ A: A, Ă, Â, N, M.
	+ Nhóm chư U: U, Ư, Y, V, X, N, M.
	+ Nhóm chữ V: V, Y, K, H.
	+ Nhóm chữ L: L, S, C, G, E, Ê, C, T.
	+ Nhóm chữ P: P, B, R, D, Đ.
	+ NHóm chữ O: O, Ô, Ơ, Q
4.6. Luyện viết liền mạch.
	Khi viết một chữ cái gồm từ hai chữ cái trở nên nối lại với nhau, để đảm bảo tốc độ viết, học sinh không thể viết rời từng chữ cái mà phải di chuyển dụng cụ viết đưa nét liên tục theo kỹ thuật viết liền mạch. Viết xong chữ cái đứng trước, viết tiếp chữ cái đứng sau ( không nhấc bút khi viết) 
	Ví dụ: Phượng múa rồng bay.
	Trong thực tiễn viết chữ ghi tiếng của Tiếng Việt có thể xảy ra các trường hợp viết liên kết như sau:
4.6.1. Trường hợp viết nối thuận lợi:
	 Đây là trường hợp các chữ đứng trước và đứng sau đều có nét liên kết (gọi là liên kết hai đầu). Khi viết, người viết chỉ cần đưa tiếp nét bút từ điểm dừng bút của chữ cái đứng trước nối sang điểm đặt bút của chữ cái đứng sau một cách thuận lợi theo hướng dịch chuyển của nét bút từ trái sang phải.
	Ví dụ: 
	a nối với n ..... an AN.
	x nối với inh... .. xinh , XINH.
	Ở lại liên kết này có thể xảy ra hai kiểu.
	+ Liên kết trong nội bộ phần vần.
	+ Liên kết một đầu. 
4.6.2. Trường hợp viết nối không thuận lợi:
 Đó là những trường hợp nối các chữ cái mà ở vị trí liên kết không thể viết các nét nối từ nét cuối của chữ cái đứng trước với điểm bắt đầu của chữ cái đứng sau
- Liên kết một đầu:
 + Chữ cái đứng trước có liên kết, chữ cái thứ hai không có liên kết.
 + Điểm liên kết sẽ là điểm kết thúc của nét chữ thứ nhất trong vần hoặc trong tiếng. Khi viết đến điểm dừng bút của chữ cái đứng trước, cần " lia bút" điểm bắt đầu của chữ cái đứng sau rồi viết (sao cho nét cong trái chạm vào điểm dừng bút của chữ cái đứng trước)
 + Chữ cái đứng trước không có nét liên kết, chữ cái thứ hai (đứng sau) có nét liên kết. Khi viết đến điểm dừng bút của chữ cái đứng trước thì lia bút đến điểm bắt đầu của chữ cái đứng sau và viết tiếp theo quy trình viết liền mạch.
 + Điểm liên kết sẽ là điểm bắt đầu của chữ cái đứng sau. Một số trường hợp để tránh phải nhấc bút khi viết cần tạo thêm nét phụ. Khi viết xong chữ cái đứng trước, từ điểm dừng bút của chữ cái đứng trước rê bút tạo nét liên kết phụ.
- Không liên kết:
 + Trường hợp này cả hai chữ cái đứng cạnh nhau đều không có nét liên kết, khi viết phải tạo thêm nét liên kết phụ như trường hợp liên kết một đầu
 ( liên kết giữa chữ cái đứng trước không có liên kết, chữ cái đứng sau có liên kết). Điểm đặc biệt ở đây là khó viết nét liên kết phụ. Do đó cần xác định điểm nối ở chữ cái đứng sau sao cho nét liên kết phụ nối từ điểm dừng bút của chữ cái đứng trước chạm đúng vào điểm bắt đầu của chữ cái đứng sau.
 + Trường hợp điểm dừng bút của chữ cái đứng trước cách xa và không thuận chiều với điểm đặt bút của chữ cái đứng sau, người viết cũng phải sử dụng kĩ thuật " lia bút" để đảm bảo viết liền mạch. Đây là trường hợp xảy ra giữa một số chữ hoa đứng trước không có nét liên kết và các chữ thường đứng sau không có nét liên kết.
 + Sau khi viết xong chữ cái viết hoa, cần tạo một nét phụ ở trước chữ cái thường đứng sau ( phía trước nét cong trái như: o,a...). Điểm đặt bút của nét phụ nằm trên đường kẻ ngang, thẳng hàng dọc với vị trí ngoài cùng của nét cuối chữ hoa. sau đó viết nét thẳng hất lên, lia bút về điểm đặt bút của chữ cái đứng sau.
 Tóm lại: muốn viết nhanh thì học sinh phải viết liền mạch. Liền mạch giữa các nét trong một chữ cái, liền mạch giữa các chữ cái trong một chữ, nét bút thường đưa liền mạch từ đầu đến cuối rồi sau đó mới nhấc bút viết tiếp các nét dấu (dấu chữ, dấu thanh) và khoảng cách từ chữ nọ sang chữ kia bằng một con chữ:
Ví dụ: xinh xắn.
 Khi viết chữ " xinh" , cần nối liền nét cuối chữ x với nét đầu chữ i, nét cuối chữ i với nét đầu chữ n, nét cuối chữ n với nét đầu chữ h rồi nhấc bút viết nét chấm của chữ i. Từ chữ " xinh" cách một khoảng bằng chữ "o" rồi viết tiếp chữ " xắn"
 4.7. Hướng dẫn dấu thanh.
	Vị trí của dấu thanh có tác dụng khác biệt các chữ nghi tiếng. Dấu thanh chỉ đặt vào chữ cái. Các dấu thanh: huyền ( \ ), sắc ( / ), hỏi ( ? ), ngã ( ...) đặt phía trên các chữ cái. Dấu nặng ( .) đặt phía dưới của chữ 
	Ví dụ: Lời nói chẳng mất tiền mua
 Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
	+ Ở các chữ nghi tiếng không có âm đệm và không có âm cuối vần, dấu thanh đặt trên hoặc dưới âm chính.
	Ví dụ: bố, mẹ,...
	+ Ở các chữ nghi tiếng có âm chính là nguyên âm đơn và âm cuối vần cũng là bán nguyên âm, dấu thanh đặt trên chữ nghi âm đơn làm âm chính.
	Ví dụ: Bão, mồi.
	+ Ở các chữ nghi tiếng có âm đệm đầu vần, dấu thanh đặt trên hoặc dưới âm chính.
	Ví dụ: tuỳ, quyển, loá.
	+ Trường hợp dấu thanh xuất hiện trong các tiếng có nguyên âm đôi ở vần.
	- Trong trường hợp chữ viết ghi tiếng có nguyên âm đôi mà không có âm cuối vần thì dấu thanh được viết ở vị trí con chữ thứ nhất của nguyên âm đôi.
	Ví dụ: mùa, lứa, mía.
	- Trong trường hợp chữ viết ghi tiếng có nguyên âm đôi nhưng lại có âm cuối vần thì dấu thanh được viết ở vị trí con chữ thứ hai của nguyên âm đôi.
	Ví dụ: rượu, muối,...
	+ Trường hợp dấu thanh xuất hiện trong các tiếng mà nguyên âm ở phần đầu có dấu phụ thì dấu thanh viết như sau:
	- Ở các nguyên âm có dấu mũ ( A) : â, ê, ô dấu sắc ( / ) dấu huyền ( \ ), dấu hỏi ( ? ) được viết hơi cao hơn và hơi lệch về phía phải của mũ.
	Ví dụ: ốm, biển, chồng,...
	- Ở các nguyên âm có dấu thanh ở vị trí phía trên của dấu ( V ) 
	Ví dụ: cằm, nhắm,...
	Do ở tư thế nằm ngang nên khi xuất hiện trong các chữ mà phần vần có nguyên âm mang dấu phụ, dấu ngã được viết trên các dấu phụ.
	Ví dụ: chẵn, mẫn,...
	4.8. Kết hợp với các môn học khác để rèn chữ viết như phân môn. Chính tả. Tập đọc.
	4.8.1 Phân môn Chính tả.
	 Trong quá trình dạy Chính tả tôi thường xuyên thống kê các lỗi mà học sinh hay mắc phải để tìm cách sửa. Các lỗi học sinh hay mắc phải như lối do không nắm được các đặc điểm về nguyên tắc kết hợp các chữ cái, qui tắc viết hoa trong Tiếng Việt, lỗi do viết sai với phát âm chuẩn, lỗi do trình bày chưa khoa học, chưa đúng qui định...
	 Cho học sinh học lại qui tắc đánh dấu thanh và thường xuyên kiểm tra lại như trong lúc kiểm tra bài cũ, luyện viết chữ khó, chữa lỗi.
	Ví dụ: Trong chữ ''lúa'' dấu sắc đặt ở vị trí nào? hay trong chữ "cười " dấu huyền đặt ở vị trí nào?
	- Nhắc lại qui tắc viết hoa.
	* Tên người, địa danh viết hoa tất cả những con chữ đầu của tiếng.
	Ví dụ: Nguyễn Văn An, Kinh Môn,...
	- Viết hoa khi mở đầu câu, đoạn (chỉ viết hoa chữ cái đầu tiên của chữ cái thứ nhất)
	- Lập bảng để học sinh ghi nhớ qui tắc phân bổ các ký hiệu cùng biểu thị một âm rôi cho học sinh học thuộc.
Phụ âm.
- c, g, ng.
- k, gh, ngh.
- q.
Kết hợp với các nguyên âm
- a, ă, â, o, ô, ơ, u, ư.
- i, e, ê.
- u ( làm âm đệm) 
	- Luyện viết các tiếng, từ khó trước khi viết vào vở (các chữ có phụ âm đầu dễ lẫn: s/x; l/ n; tr/ ch; r/gi.)
	- Tìm từ so sánh giải nghĩa những từ dễ lẫn.
	Ví dụ: Lồi/ nồi; suất/ xuất.
	- Hướng dẫn học sinh cách trình bày bài khoa học, sạch sẽ đúng mẫu cỡ chữ. Ở mỗi kiểu bài, nhất là những bài đầu tiên của năm học, tôi hướng dẫn các em rất cẩn thận.
	Ví dụ: Tên bài viết ở giữa dòng, cách đều hai bên cụ thể: Đếm bốn ô vuông rồi viết.
	Đối với những bài chính tả là văn xuôi thì mỗi lần xuống dòng đều phải viết lùi vào một ô vuông so với dòng kẻ lề.
	Ví dụ: Như bài ''Sơn Tinh Thuỷ Tinh"
	- Đối với bài chính tả ở thể loại thơ lục bát, câu sáu chữ viết lùi vào so với câu tám chữ một ô vuông.
	Ví dụ: Bài "Mẹ" 
	- Ở những bài thơ có chia thành khổ thơ thì giữa các khổ thơ để một dòng trống ngăn cách.
	Ví dụ: "Bé nhìn biển"
	Khi đọc những bài đầu tiên cho học sinh viết, tôi thường đọc chậm để cho tất cả học sinh trong lớp đều viết được, sau đó mới đọc nhanh dần đạt đúng tốc độ qui định.
	Chấm một số bài ngay trên lớp, phát hiện lỗi, cho học sinh chữa ngay những lỗi sai cơ bản. Số bài còn lại chấm ở nhà.
	- Cho học sinh làm một số bài tập ngay trên lớp như: Điền vào chỗ trống, tìm và viết các từ chứa tiếng bắt đầu bằng ( L,n) thì tìm nhanh các từ ngữ chỉ hoạt động chứa tiếng bắt đầu bằng ( L, n).
	Cho học sinh luyện viết chữ sai vào vở.
	- Luôn nhắc nhở học sinh giữ gìn vở viết sạch đẹp, không làm quăn mép, vẽ bậy, giây mực vào vở, nhàu vở...Chú ý khi viết tay, chân, quần áo, mặt mũi phải sạch sẽ,...
	4.8.2 Phân môn tập đọc.
	Trong khi dạy Tập đọc, tôi thường luyện cho học sinh phát âm đúng các từ ngữ dễ lẫn.
	Ví dụ: Luyện phát âm đúng các tiếng, từ có phụ âm đầu l/n.
	+ Giáo viên nêu: "l" là phụ âm xát vang bên, đầu lưỡi, răng. Khi phát âm đầu lưỡi chạm hàm trên, lưỡi cong, hơi phát ra ngoài.
	''n'' là phụ âm tắc, vang mũi, đầu lưỡi, răng. Khi phát âm lưỡi không cong lên mà đầu lưỡi hơi đưa vào đẩy hơi qua hai hàm răng.
	+ Cho học sinh luyện phát âm l/n bằng cách: Lấy hai ngón tay ( ngón cái và ngón trỏ) bịt mũi và phát âm l/n. Học sinh dễ nhận thấy khi phát âm "l'' hơi không đi qua mũi, còn khi phát âm ''n'' hơi sẽ đẩy ra lỗ mũi.
	+ Cho học sinh luyện đọc, viết:	La, lo, lô, lu, li.
	Na, no, nô, nu, ni.
	Đi Hà Nội mua cái nồi về nấu cơm nếp.
	Lúa lổ lung linh.
	Cô nàng ăn nói nết na.
4.9 Một số bài tập luyện viết chữ đẹp:
4.9.1. Bài tập luyện viết chữ thường được sắp xếp theo từng nhóm chữ từ dễ đến khó, viết ứng dụng.
Số thứ tự
Nét cơ bản
Chữ cần luyện
Từ ngữ ứng dụng
1
n
nắn nót, nết na, nồng nàn...
2
m
mềm mại, mát mẻ, mịn màng...
3
i, t, u
im ỉm, in ít,tinh tường, to tát, ủng ỉnh...
4
v, r, s
vui vẻ, vừa vặn, rộn ràng, sặc sỡ...
5
l
lập loè, lấp lánh, long lanh...
6
h
hội hè, học hành, hân hoan...
7
k
khó khăn, khúc khích, khoan khoái...
8
b
bạn bè, bàn bạc, biêng biếc...
9
y,p
bình iên, yêu thương, phôi phai...
10
O
o, ô, ơ
óng ải, ồn ào, ơn ớn...
11
O
a, ă, â
ào ạt, im ắng, ầm ĩ...
12
O
d, đ
dặn dò, dở dang, đúng đắn, đồ đạc...
13
O
q, g
quấn quýt, gọn gàng...
14
c, x
cặm cụi, cuôn cuộn, xinh xinh, xinh xắn...
15
e, ê
êm ả, em bé...
16
nh, ch
nhẹ nhàng, nhanh nhẹn, chăm chỉ...
17
th, tr
thanh thản, thiết tha, trong trẻo...
18
ph, kh
phố phường, khoẻ khoắn, khôn khéo...
19
ng, gh
ngoan ngoãn, gập ghềnh...
20
ngh
nghi ngờ, nghỉ ngơi, nghi ngờ...
4.9.2. Bài tập luyện viết chữ hoa được sắp xếp theo từng nhóm chữ từ dễ đến khó, viết ứng dụng.
Số thứ tự
Nét cơ bản
Chữ cần luyện
Từ ngữ ứng dụng
1
U, Ư
Ươm cây gây rừng.
2
V
Vượt suối băng rừng.
3
Y
Yêu luỹ tre làng.
4
N,M
Miệng nói tay làm.
5
C
Chia ngọt sẻ bùi.
6
G
Góp sức chung tay.
7
E
Em yêu trường em.
8
T
Thẳng như ruột ngựa.
9
P
Phong cảnh hấp dẫn.
10
R
Ríu rít chim ca.
11
B
Bạn bè sum họp.
12
D, Đ
Dân giầu nước mạnh.
Đẹp người, đẹp nết.
13
J
Ích nước lợi nhà.
14
K
Kề vai sát cánh.
15
H
Học, học nữa, học mãi.
16
S
Sáo tắm thì mưa.
17
L
Lá lành đùm lá rách.
18
N
Nghĩ trước nghĩ sau.
19
M
Miệng nói tay làm.
20
A, Ă, Â
Anh em thuận hoà.
Ăn chậm nhai kĩ.
21
O, Ô, Ơ
Ong bay bướm lượn.
Ơn sâu nghĩa nặng.
22
Q,
Quê hương tươi đẹp.
23
A
An cư lạc nghiệp.
24
Ch
Chim khôn nghe tiếng rảnh rang
Người khôn nghe tiếng dịu dàng dễ thương
25
Th
Thương người như thể thương thân.
26
Nh, Ng
Nhiễu điều phủ lấp giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng. 
27
Kh
Khi đi trúc chửa mọc măng.
Khi về trúc đã cao bằng ngọn tre.
28
Ph
Phá Tam Giang nối đường ra Bắc
Đèo Hải Vân hướng mặt vào Nam
29
Tr
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhụi vàng.
 Tóm lại: Việc rèn chữ viết đẹp cho học sinh là một công việc hết sức tỉ mỉ đòi hỏi cả thầy và trò đều có tình kiên trì, mềm dẻo, không nóng vội, một hai ngày không thể làm được mà công việc này phải diễn ra thường xuyên, liên tục. Rèn chữ viết đẹp cho học sinh là trách nhiệm của mỗi thầy cô giáo đối với thế hệ trẻ. Nếu khi còn nhỏ các em không được chú ý đến việc rèn chữ (rèn nết người) thì lớn lên các em sẽ có ít cơ hội để rèn chữ hơn. Học sinh viết chữ đẹp là niềm vui của thầy cô, hạnh phúc của trẻ là niềm tự hào của cha mẹ các em. Trong các biện pháp rèn chữ viết nêu trên, muốn có kết quả cao thì cần phải có kết hợp hài hoà giữa các biện pháp. Cần tạo điều kiện để các em tự tìm ra kiến thức bằng chính hành động của mình. Người giáo viên chỉ đóng vai trò là người tổ chức, hướng dẫn cho các em học tập. Tuổi các em còn nhỏ rất thích được khen. Những lời khen kịp thời sẽ giúp các em có hứng thú học tập và mau tiến bộ. Viết chữ đẹp sẽ giúp các em học tập tốt hơn, góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục, đạt được mục tiêu giáo dục đã đề ra.
5. Kết quả đạt được.
 Qua quá trình áp dụng dạy theo phương pháp mới nêu trên. Cùng với sự nỗ lực không ngừng của cô và trò chữ viết của lớp tôi đã tiến bộ rõ rệt. Qua khảo sát chất lượng tôi thu được kết quả như sau:
 5.1 Khảo sát chất lượng
* Kết quả đầu năm:
Lớp
Sĩ số
Chữ viết đúng mẫu, đều nét, đúng khoảng cách
Chữ viết đúng mẫu, chưa đều nét
Chữ viết chưa đúng mẫu, chưa đều nét, chưa đúng khoảng cách
SL
%
SL
%
SL
%
2E
27
7
26
8
30
12
44
* Kết quả cuối HKI
Lớp
Sĩ số
Chữ viết đúng mẫu, đều nét, đúng khoảng cách
Chữ viết đúng mẫu, chưa đều nét
Chữ viết chưa đúng mẫu, chưa đều nét, chưa đúng khoảng cách
SL
%
SL
%
SL
%
2E
27
13
48
10
37
4
15
  Như vậy, sau gần một năm học, chất lượng chữ viết của học sinh đã nâng lên đáng kể. Trước khi áp dụng các phương pháp giảng dạy và biện pháp hướng dẫn học sinh viết như trên, chất lượng viết của lớp tôi chưa cao. Học sinh mới chỉ dừng ở mức độ viết được đúng, rõ ràng. Số học sinh viết đúng - đẹp còn ít ( 7/ 27 em). Qua quá trình áp dụng những biện pháp thực hiện nêu trên tôi nhận thấy giờ học Tập viết diễn ra nhẹ nhàng, tự nhiên, hiệu quả. Đặc biệt kĩ năng viết của học sinh đã tăng lên rõ rệt (13 em tăng 22%). Học sinh đã “biết cách” viết một từ, một câu văn, một đoạn văn, một đoạn thơ theo yêu cầu. Qua hai đợt 

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_ren_chu_viet_dung_vie.doc